nairātmyaparipṛcchā nāma mahāyānasūtram | Kinh Đại Thừa có tên là Các Câu Hỏi Về Vô Ngã
Trần Quang Đăng dịch từ Sanskrit sang Việt Văn
Dịch xong ngày 19/08/2025
Lúc bấy giờ, các ngoại đạo, với cái thấy đầy chấp thủ, đầy phân biệt và đầy suy lường, đến gần đức Thế Tôn, hiện đang thuyết giảng về Đại Thừa. Họ cung kính, chắp tay, hỏi về vấn đề Vô Ngã như sau:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, bậc Toàn Tri dạy rằng thân là vô ngã - không có cái gì gọi là ta.
Nếu thân là vô ngã - không có cái gì gọi là ta, thì cái tự ngã chính mình tối thượng không hiện hữu. Vậy từ đâu mà những thứ như cười, khóc, vui chơi, sân hận, kiêu mạn, ganh ghét, nói lời ác lại sinh khởi? Do vậy, chúng tôi có nghi ngờ. Xin đức Thế Tôn từ bi giải thoát nghi này cho chúng tôi: Trong thân có tự ngã chính mình tối thượng, hay là không có?
Đức Thế Tôn nói rằng:
Này các hiền giả, trong thân có tự ngã chính mình tối thượng – như thế được nói, chứ không phải là không có. Ở đây không nói cả hai cùng một lúc. Nhưng nếu nói rằng ‘có tự ngã chính mình tối thượng’, thì này các hiền giả, đó là lời nói hư vọng.
Nếu tự ngã chính mình tối thượng là có, thì tại sao, này hiền giả, trong toàn thân – gồm tóc, móng, răng, da, lông, mạch máu, thịt, xương, tủy mỡ, tủy xương, gân, lá lách, ruột, dạ dày, đầu, tay, chân, và các bộ phận – khi quán xét cả bên ngoài lẫn bên trong, thì không thấy cái nào là tự ngã chính mình tối thượng?
Các ngoại đạo nói:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, quả thật, như trường hợp đức Thế Tôn nói khi quán xét cả bên trong lẫn bên ngoài, tất cả mọi bộ phận và chi phần của thân thể, tự ngã chính mình tối thượng không được thấy. Với con mắt thịt, chúng tôi không thấy. Tuy nhiên, đôi khi những người có thiên nhãn lại thấy được tự ngã chính mình tối thượng trong những bộ phận thân thể ấy.
Đức Thế Tôn nói rằng:
Không phải vậy, này hiền giả, ngay cả những người có thiên nhãn cũng không thể thấy. Cái gì vốn không có màu sắc, không có hình tướng, không do tạo tác làm thành, thì làm sao có thể thấy được?
Các ngoại đạo nói: Vậy thì là tự ngã chính mình tối thượng là không có sao?
Đức Thế Tôn nói:
Nói là ‘không có tự ngã chính mình tối thượng’, này hiền giả, cũng là lời hư vọng. Nếu là không có, vậy thì từ đâu mà những thứ như cười, khóc, vui chơi, giận dữ, kiêu mạn, ganh tỵ, nói lời ác lại có thể sinh ra? Do vậy, không thể nói rằng là không có tự ngã chính mình tối thượng. Cả hai điều – có hay không có – đều không nói được.
Các ngoại đạo hỏi:
Nếu, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, không nói là có hay là không có, thì cái gì sẽ là chỗ nương tựa ở đây?
Đức Thế Tôn nói:
Này hiền giả, tự ngã chính mình tối thượng là không có gì làm chỗ nương tựa.
Ngoại đạo hỏi:
Tự ngã chính mình tối thượng có phải rỗng không giống như hư không chăng?
Đức Thế Tôn nói:
Đúng vậy, này hiền giả, đúng như thế – tự ngã chính mình tối thượng rỗng không giống như hư không.
Ngoại đạo hỏi:
Nếu là như vậy, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, thì những thứ như cười, khóc, vui chơi, giận dữ, kiêu mạn, ganh ghét, nói lời ác phải được thấy như thế nào?
Đức Thế Tôn nói:
Phải được thấy như giấc mộng, như huyễn hóa, như trò ảo thuật.
Ngoại đạo hỏi:
Huyễn hóa là thế nào? Giấc mộng là thế nào? Ảo thuật là thế nào?
Đức Thế Tôn nói:
Huyễn hóa chỉ là tướng giả lập, không thể nắm bắt. Giấc mộng chỉ là ảnh hiện, có bản tính là Tánh Rỗng Không tự nhiên. Ảo thuật là sự vận dụng do người tạo tác. Như vậy, này hiền giả, tất cả đều phải được thấy như giấc mộng, huyễn hóa, và ảo thuật.
Lại nữa, có hai sự phân biệt được chỉ bày, đó là: chân lý thế gian (saṃvṛtiḥ) và chân lý tuyệt đối (paramārthaḥ). Trong đó, cái gọi là chân lý thế gian chính là cái ngã, và cái gọi là chân lý tuyệt đối chính là bờ kia của tự ngã chính mình tối thượng. Như vậy, những khái niệm như: sinh mệnh, người khác, bản thân mình, hữu tình, kẻ tạo tác, kẻ thọ nhận, cùng với sự phân biệt về tài sản, của cải, con cái, vợ chồng – tất cả đó đều gọi là chân lý thế gian.
Nơi nào không có ngã, không có bờ kia của tự ngã chính mình tối thượng, như vậy, cũng không có sinh mệnh, không có hữu tình, không có người khác, không có bản thân mình, không có kẻ tạo tác, không có kẻ thọ nhận, không có tài sản nắm giữ v.v… thì đó chính là con đường trung đạo của chánh pháp.
Ở đây, điều này được đến:
1. Chân lý thế gian, lý tuyệt đối,
Là hai phân biệt được hiển bày.
Lý thế gian là pháp thế gian,
Chân lý tuyệt đối, pháp xuất thế.
2. Chúng sinh rơi vào lý thế gian,
Bị dẫn dắt bởi nhiều phiền não.
Họ không biết chân lý tuyệt đối,
Nên lang thang lâu dài sinh tử.
3. Lý thế gian là pháp thế gian,
Kẻ vô trí chấp trước vào nó.
Do vọng tưởng, nên họ phải chịu,
Những khổ đau luân hồi không dứt.
4. Những phàm phu mù lòa, ấu trĩ,
Họ không thấy con đường giải thoát.
Họ liên tục sinh khởi rồi diệt,
Đi xoay tròn luân hồi năm nẻo,
Trong trạng thái địa ngục u ám,
Với tâm trạng nóng đốt khó chịu,
Cảnh đói khát trong loài ngạ quỷ,
Sống bản năng loài thú thiếu trí,
Hoặc sân hận như a-tu-la.
5. Những kẻ si mê, không tuệ giác,
Bị bao phủ bởi pháp thế gian,
Cứ lang thang như vòng bánh xe.
Họ không biết chân lý tuyệt đối,
Nơi hiện hữu hoàn toàn diệt tận.
Bị bao vây trong lưới sinh tử,
Họ cứ phải luân hồi mãi mãi.
6. Như mặt trăng mặt trời tuần hoàn,
Theo chu kỳ mọc lên rồi lặn,
Cũng như vậy trong đời sống này,
Sự sinh diệt cứ đến rồi đi,
Cả trong thân lẫn trong tâm thức.
7. Tất cả các hành đều vô thường,
Không bền chắc, chỉ trong chốc lát,
Tất cả chúng đều sẽ tan hoại.
Chính do vậy, người nào biết rõ,
Và hiểu được chân lý tuyệt đối,
Nên xa lìa con đường các pháp,
Những thứ thuộc chân lý thế gian.
8. Ở cõi trời, những vị chư thiên,
Cũng như nhạc thần Càn-thát-bà,
Apsara và các loài khác,
Tất cả đều có sự đoạ lạc.
Đều là quả chân lý thế gian.
Các bậc Tiên, và bậc Thần thông,
Dạ-xoa, Khẩn-na-la, Rồng Lớn,
Rồi họ lại đọa vào địa ngục.
Đều là quả chân lý thế gian.
9. Dù đạt được ngôi vị Thiên Đế,
Thành Sakra, vua của chư thiên,
Hay thành vua Chuyển Luân Thánh Vương,
Cùng với chỗ tối thắng bậc nhất,
Rồi họ lại tái sinh súc sinh.
Đều là quả chân lý thế gian.
10. Do vậy, hãy bỏ lại tất cả,
Mọi lạc thú to lớn cõi trời,
Người tuệ giác hãy nên thường xuyên,
Tuệ prājña tu tập quán chiếu,
Tâm Tỉnh thức sẽ rất sáng chói.
11. Không tự tánh hiện hữu chính nó,
Hoàn toàn không có chỗ nương tựa,
Và ở đây hoàn toàn rỗng không,
Không nơi trú, vượt mọi hý luận,
Là đặc tướng của tâm Tỉnh thức.
12. Tâm Tỉnh Thức không cứng, không mềm,
Không xúc chạm, không nóng, không lạnh,
Và hoàn toàn không thể nắm bắt,
Là đặc tướng của tâm Tỉnh thức.
Không có khối, không dài, không ngắn,
Không hình thù, không hình tam giác,
Cũng không gầy, không ốm, không mập,
Là đặc tướng của tâm Tỉnh thức.
Không trắng, không đỏ, và không đen,
Không vàng, không màu, không hình tướng,
Là đặc tướng của tâm Tỉnh thức.
Không biến đổi, không có biểu hiện,
Hoàn toàn không có sự hình thành,
Không hình tướng, không bị ràng buộc,
Nó rỗng không giống như hư không
Là đặc tướng của tâm Tỉnh thức.
13. Vượt ngoài mọi tu tập quán chiếu,
Vượt khỏi tầm cảnh giới ngoại đạo,
Có hình thái chính là Tuệ Giác,
Là Prajñā ở Bờ Bên Kia,
Là đặc tướng của tâm Tỉnh thức.
Không gì sánh, không có biểu tướng,
Không thể thấy, vốn thật an tĩnh,
Tánh thanh tịnh, không phải vật chất,
Là đặc tướng của tâm Tỉnh thức.
14. Tâm thế gian đều tựa như vầy:
Không thực thể, giống như bọt nước,
Nó vô thường, vô ngã, như huyễn,
Tánh ảo ảnh giống như nắng dợn.
Như cục đất sét thành cái bình,
Đầy dẫy các hý luận sai biệt,
Bị kết hợp bởi tham, sân, si,
Và trộn lẫn các phiền não khác,
Nhưng rốt ráo chỉ là mộng huyễn.
Như tia chớp ở trong đám mây,
Trong khoảnh khắc đã không còn thấy,
Ai thường xuyên tu tập quán chiếu,
Bằng Tuệ Giác prajñā chính mình,
Là tuệ giác ở Bờ Bên Kia,
Sẽ đạt đến bước chân tối thượng.
15. Sự vui chơi, tiếng cười, nói chuyện,
Khóc than, ca múa, hát, âm nhạc,
Tất cả đều giống như giấc mộng.
Tất cả các hành trong tâm thức,
Ngay cả thân của mọi chúng sinh,
Tất cả đều như huyễn, như mộng.
Giấc mộng đó chính là tư tưởng,
Còn tâm thì giống như hư không.
16. Ai thường xuyên tu tập quán chiếu,
Theo đường chánh tuệ giác chính mình,
Là tuệ giác ở Bờ Bờ Kia,
Người ấy thoát khỏi mọi tội lỗi,
Sẽ đạt đến cảnh giới tối thượng.
Đây chính là Tỉnh thức Vô Thượng,
Được chư Phật Toàn Giác tuyên thuyết.
17. Ai tu tập pháp quán chiếu này,
Thực hiện ngay ở trong đời này,
Sẽ đạt được Niết-bàn an lạc,
Sống ngay trong trạng thái tĩnh lặng,
Đều dập tắt ngọn lửa sinh diệt,
Đang thiêu cháy ở trong tâm thức,
An trú sự tịch tĩnh tuyệt đối.
Bao nhiêu lỗi lầm thuộc thế tục,
Cũng bấy nhiêu công đức Niết-bàn.
Niết-bàn là hoàn toàn vô sinh,
Không bị mọi lỗi lầm nhiễm dính.
Lúc bấy giờ, những ngoại đạo trở nên hoan hỷ, lìa khỏi vọng tưởng phân biệt, an trụ trong pháp quán chiếu, và đã đạt được công đức cúng dường của Đại thừa.
Như vậy, trong phần tuyên thuyết Đại thừa, phẩm Các Câu Hỏi Về Vô Ngã đã hoàn tất.
-------------------------------------
Sanskrit:
nairātmyaparipṛcchā nāma mahāyānasūtram |
atha te tīrthikā upalambhadṛṣṭayaḥ savikalpāḥ savitarkā mahāyānikamupasṛtya sādarakṛtāñjalipuṭā nairātmyapraśnaṃ paripṛcchanti sma-nairātmakaṃ śarīramiti kulaputra sarvajñena nirdiśyate | yadi śarīraṃ nairātmakam, paramātmā na vidyate | tat kasmātsakāśādete hasitaruditakrīḍitakrodhamānerṣyāṃpaiśunyādayaḥ samutpadyante ? tadasmākaṃ saṃdehaṃ mocayitumarhati bhagavān-kimasti śarīre paramātmā, kiṃ vā nāsti ?
mahāyānikāḥ prāhuḥ-mārṣāḥ, śarīre paramātmā astītyucyate, na hi nāstīti | dvayamatra nocyate | asti paramātmetyucyamāne mārṣā mithyāpralāpaḥ | yadyasti, tatkathaṃ mārṣāḥ keśanakhadantacarmaromasirāmāṃsāsthimedamajjāsnāyuplīhāntranālaśiraḥkaracaraṇāṅgasakalaśarīre sa bāhyābhyantare vicāryamāṇe na dṛśyate paramātmā ?
tīrthikāḥ prāhuḥ-na dṛśyate kulaputra paramātmā | māṃsacakṣuṣā vayaṃ na paśyāmaḥ | kadāciddivyacakṣuṣaḥ paśyanti |
mahāyānikāḥ prāhuḥ-na mārṣā divyacakṣuṣo'pi paśyanti | yasya na varṇo na rūpaṃ na saṃskāraḥ, tatkathaṃ dṛśyate ?
tīrthikāḥ prāhuḥ-kiṃ nāsti ? mahāyānikāḥ prāhuḥ-nāstītyucyamāne mārṣā mithyāpralāpaḥ | yadi nāsti, tatkathamasya ete hasitaruditakrīḍitakrodhamānerṣyāpaiśunyādayaḥ saṃbhavanti ? tena nāstīti vaktuṃ na pāryate | ubhāvetau dvau nocyete |
tīrthikāḥ prāhuḥ-yadi kulaputra nocyate astīti vā nāstīti vā, tatkimatrālambanaṃ bhavatu ?
mahāyānikāḥ prāhuḥ-na mārṣāḥ kiṃcidālambanaṃ bhavati |
tīrthikāḥ prāhuḥ- kiṃ śūnyamākāśamiva ?
mahāyānikāḥ prāhuḥ-evametanmārṣāḥ, evametat | śūnyamākāśamiva |
tīrthikāḥ prāhuḥ-yadyevaṃ kulaputra, tadete hasitaruditakrīḍitakrodhamānerṣyāpaiśunyādayaḥ kathaṃ draṣṭavyāḥ ?
mahāyānikāḥ prāhuḥ-svapnamāyendrajālasadṛśā draṣṭavyāḥ |
tīrthikāḥ prāhuḥ-kīdṛśī maya, kīdṛśaḥ svapnaḥ, kidṛśa indrajāla iti ?
mahāyānikāḥ prāhuḥ-upalakṣaṇamātraṃ mayā agrāhā, pratibhāsamātraṃ svapnaḥ prakṛtiśūnyatāsvarūpaḥ, indrajālaḥ kṛtrimaprayogaḥ | evaṃ mārṣāḥ sarve svapnamāyendrajālasadṛśā draṣṭavyāḥ | punaraparaṃ dvau bhedau vinirdiṣṭau yaduta saṃvṛtiḥ paramārthaśca | tatra saṃvṛtirnāma ayamātmā, ayaṃ paraḥ | evaṃ jīvaḥ puruṣaḥ pudgalaḥ kārakaḥ vedakaḥ | dhanaputrakalatrādikalpanā yā, sā saṃvṛtirnāma | yatra nātmā na paraḥ, evaṃ na jīvo na pudgalaḥ na puruṣaḥ na kārakaḥ na vedakaḥ na dhanaṃ ----- sā madhyamā pratipattirdharmāṇām | tatredamucyate –
saṃvṛtiḥ paramārthaśca dvau bhedau saṃprakāśitau |
saṃvṛtirlaukiko dharmaḥ paramārthaśca lokottaraḥ || 1 ||
saṃvṛtidharmamāpannāḥ sattvāḥ kleśavaśānugāḥ |
ciraṃ bhramanti saṃsāre paramārthamajānakāḥ || 2 ||
saṃvṛtirlaukiko dharmastaṃ kalpayantyapaṇḍitāḥ |
abhūtaparikalpanādduḥkhānyanubhavanti te || 3 ||
muktimārgaṃ na paśyanti andhā bālāḥ pṛthagjanāḥ |
utpadyante nirudhyante ajasraṃ gatipañcasu || 4 ||
bhramanti cakravanmūḍhā lokadharmasamāvṛtāḥ |
paramārthaṃ na jānanti bhavo yatra nirudhyate |
veṣṭitā bhavajālena saṃsaranti punaḥ punaḥ || 5 ||
yathā candraśca sūryaśca pratyāgacchati gacchati |
bhavaṃ cyutiṃ tathā loke punarāyānti yānti ca || 6 ||
anityāḥ sarvasaṃskārā adhruvāḥ kṣaṇabhaṅgurāḥ |
ataśca paramārthajño varjayetsaṃvṛteḥ padam || 7 ||
svargasthāne tu ye devā gandharvāpsarasādayaḥ |
cyutirasti ca sarveṣāṃ tatsarvaṃ saṃvṛteḥ phalam || 8 ||
siddhā vidyādharā yakṣāḥ kinnarāśca mahoragāḥ |
punaste narakaṃ yānti tatsarvaṃ saṃvṛteḥ phalam || 9 ||
śakratvaṃ cakravartitvaṃ saṃprāpya cottamaṃ padam |
tiryagyonau punarjanma tatsarvaṃ saṃvṛteḥ phalam || 10 ||
ataḥ sarvamidaṃ tyaktvā divyaṃ svargamahāsukham |
bhāvayetsatataṃ prājño bodhicittaṃ prabhāsvaram || 11 ||
niḥsvabhāvaṃ nirālambaṃ sarvaśūnyaṃ nirālayam |
prapañcasamatikrāntaṃ bodhicittasya lakṣaṇam || 12 ||
na kāṭhinyaṃ na ca mṛdutvaṃ na coṣṇaṃ naiva śītalam |
na saṃsparśaṃ na ca grāhyaṃ bodhicittasya lakṣaṇam || 13 ||
na dīrghaṃ nāpi vā hrasvaṃ na piṇḍaṃ na trikoṇakam |
na kṛśaṃ nāpi na sthūlaṃ bodhicittasya lakṣaṇam || 14 ||
na śveta nāpi raktaṃ ca na kṛṣṇaṃ na ca pītakam |
avarṇaṃ ca nirākāraṃ bodhicittasya lakṣaṇam || 15 ||
nirvikāraṃ nirābhāsaṃ nirūhaṃ nirvibandhakam |
arūpaṃ vyomasaṃkāśaṃ bodhicittasya lakṣaṇam || 16 ||
bhāvanāsamatikrāntaṃ tīrthikānāmagocaram |
prajñāpāramitārūpaṃ bodhicittasya lakṣaṇam || 17 ||
anaupamyamanābhāsaṃ adṛśaṃ śāntameva ca |
prakṛtiśuddhamadravyaṃ bodhicittasya lakṣaṇam || 18 ||
sarvaṃ ca tena sādṛśyaṃ niḥsāraṃ budbudopamam |
aśāśvataṃ ca nairātmyaṃ māyāmarīcisaṃnibham || 19 ||
mṛptiṇḍavad ghaṭībhūtaṃ bahuprapañcapūritam |
rāgadveṣādisaṃyuktaṃ svapnamāyā tu kevalam || 20 ||
abhrāntare yathā vidyut kṣaṇādapi na dṛśyate |
prajñāpāramitādṛṣṭyā bhāvayetparamaṃ padam || 21 ||
krīḍitaṃ hasitaṃ nityaṃ jalpitaṃ ruditaṃ tathā |
nṛtyaṃ gītaṃ tathā vādyaṃ sarvaṃ svapnopamaṃ hi tat ||22 ||
māyāsvapnopamaṃ sarvaṃ saṃskāraṃ sarvadehinām |
svapnaṃ ca cittasaṃkalpaṃ cittaṃ ca gaganopamam || 23 ||
bhāvayedya imaṃ nityaṃ prajñāpāramitānayam |
sa sa rvapāpanirmuktaḥ prāpnoti paramaṃ padam || 24 ||
iyaṃ sānuttarā bodhiḥ sarvabuddhaiḥ prakāśitā |
bhāvanāṃ bhāvayitveha nirvāṇaṃ labhate śivam || 25 ||
yāvantaḥ saṃvṛterdoṣāstāvanto nirvṛterguṇāḥ |
nirvṛtiḥ syādanutpattiḥ sarvadoṣairna lipyate || 26 ||
atha te tīrthikāstuṣṭā vikalparahitāstadā bhāvanāṃ samādhāya mahāyānayajñalābhino'bhūvanniti ||
mahāyānanirdeśe nairātmyaparipṛcchā samāptā ||
Comments