KARUṆĀPUṆḌARĪKA-SŪTRAM - KINH HOA SEN TRẮNG PUṆḌARĪKA ĐẠI BI THANH TỊNH
KARUṆĀPUṆḌARĪKA-SŪTRAM
KINH HOA SEN TRẮNG PUṆḌARĪKA ĐẠI BI THANH TỊNH
TS.Trần Quang Đăng dịch từ Sanskrit sang Việt Văn
1. dharma-cakra-pravartano nāma prathamaḥ parivartaḥ
1. Phẩm Chuyển Bánh Xe Chánh Pháp
om namaḥ śrīsarvabuddhabodhisattvebhyaḥ||
Tự mình an trú nơi tự tánh Tỉnh Thức hiện hữu của chính mình, là hoàn toàn quy mạng tất cả các đức Phật và Bồ Tát tôn quý.
Con hoàn toàn quy mạng đức Phật, Bậc Toàn Tri.
Con hoàn toàn quy mạng Chánh Pháp, và Thánh Tăng Thanh Tịnh, là kho tàng công đức.
Hôm nay, tôi sẽ tuyên thuyết Bộ Kinh thuộc Tạng Bồ Tát, có tên là Hoa Sen Trắng Puṇḍarīka Đại Bi Thanh Tịnh (karuṇāpuṇḍarīkā).
Như vậy tôi nghe:
Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành Rājagṛha - Vương Xá, trên núi Gṛdhrakūṭa - Linh Thứu, cùng với đại chúng Tỳ Kheo, gồm 1.250 vị, đều là những vị A La Hán, đã tận trừ lậu hoặc, không còn phiền não, đã điều phục hoàn toàn, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ giác hoàn toàn giải thoát, là những bậc long tượng, được ví như ngựa thuần chủng, đã hoàn tất những gì cần làm, đã làm xong những việc nên làm, đã trút bỏ gánh nặng, đã đạt đến mục đích của bản thân, đã diệt trừ hoàn toàn sự ràng buộc kết sử sinh tử, là những bậc đã đạt đến giải thoát tâm nhờ tri kiến chân chính, đã chứng đắc các Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia tối thượng về làm chủ hoàn toàn các tâm hành, và là những vị đại Thanh Văn, đã biết và chứng các thắng trí.
Như là: Trưởng lão Ā-jñā-ta-kauṇ-đin-ya, Trưởng lão Ā-sva-ji-tā, Trưởng lão Bāṣ-pa, Trưởng lão Ma-hās-thām-nā, Trưởng lão Bha-đri-ka, Trưởng lão Ma-hā-kā-śya-pa, Trưởng lão U-ru-vi-lvā-kā-śya-pa, Trưởng lão Ga-yā-kā-śya-pa, Trưởng lão Śā-ri-pu-tra, Trưởng lão Ma-hā-maud-ga-lyā-ya-na, Trưởng lão Ma-hā-kā-tyā-ya-na, Trưởng lão A-ni-rud-đha, Trưởng lão Re-va-ta, Trưởng lão Kaṃ-phil-la, Trưởng lão Ga-vāṃ-pa-ti, Trưởng lão Pi-lin-đa-vat-sa, Trưởng lão Ba-ku-la, Trưởng lão Ma-hā-kauṣ-ṭhi-la, Trưởng lão Bha-ra-đvā-ja, Trưởng lão Ma-hā-nan-đa, Trưởng lão U-pa-nan-đa, Trưởng lão Sun-đa-ra-nan-đa, Trưởng lão Pūr-ṇa, Trưởng lão Su-bhū-ti, Trưởng lão Rā-hu-la. Cũng như vậy, cùng với nhiều vị Đại Thanh Văn đứng đầu, trong đó có Trưởng lão Ā-nan-đa, thuộc bậc Hữu học, cùng 2.000 Tỳ Kheo gồm cả bậc Hữu học và Vô học.
Có 6.000 vị Tỳ Kheo Ni do Ma-hā-pra-jā-pa-tī đứng đầu, cùng với Tỳ Kheo Ni Ya-śo-đha-rā, là mẹ của Rā-hu-la, cùng với quyến thuộc.
Có 80.000 vị Bồ Tát, tất cả đều là bậc Bất Thoái Chuyển, chỉ còn một đời nữa là thành hoàn toàn Tỉnh thức, và hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là những vị đã đạt được các sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, được an trụ nơi đại biện tài, là những bậc Bất Thoái chuyển bánh xe chánh pháp, đã từng gần gũi phụng sự vô lượng trăm ngàn các đức Phật. Là những vị đã gieo trồng căn lành với vô số trăm ngàn đức Phật, và đã được vô lượng trăm ngàn đức Phật tán thán, có thân và tâm được thấm nhuần, làm cho đậm đặc bởi lòng từ ái, khéo léo trong việc thâm nhập Trí Như Lai, và là những vị có tuệ giác lớn (mahā-prajña), là những vị đã đạt được con đường của Tuệ Giác Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia (prajñā-pāramitā), được danh tiếng vang dội khắp vô số trăm ngàn thế giới, và là những bậc hộ trì cho vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ chúng sinh.
Những vị Bồ Tát ấy là: Bồ Tát Mañjuśrī - Mỹ Đức - Văn Thù Sư Lợi, là vị Đại Bồ Tát trong hình dạng của một đồng tử, Bồ Tát Quán Thế Âm Đại Bồ Tát (avalokiteśvara), Bồ Tát Đại Thế Chí Đại Bồ Tát (mahāsthāmaprāpta), Bồ Tát mang danh “Thành Tựu Mọi Lợi Ích” Đại Bồ Tát (sarvārthanāmnā), Bồ Tát Luôn Tinh Tấn Không Gián Đoạn Đại Bồ Tát (nityodyukta), Bồ Tát Không Bỏ Rơi Trách Nhiệm Đại Bồ Tát (anikṣiptadhura), Bồ Tát Có Tay Mang Ngọc Quý Đại Bồ Tát (ratnapāṇinā), Bồ Tát Dược Vương Đại Bồ Tát (bhaiṣajyarāja), Bồ Tát Dược Thượng Đại Bồ Tát (bhaiṣajyasamudgata), Bồ Tát Trang Nghiêm Vương Đại Bồ Tát (vyūharāja), Bồ Tát Dũng Mãnh Trong Bố Thí Đại Bồ Tát (pradānaśūra), Bồ Tát Ngọc Quý Mặt Trăng Đại Bồ Tát (ratnacandra), Bồ Tát Trăng Rằm Đại Bồ Tát (pūrṇacandra), Bồ Tát Đại Lực Dũng Mãnh Đại Bồ Tát (mahāvikramā), Bồ Tát Dũng Mãnh Vô Biên Đại Bồ Tát (anantavikramā), Bồ Tát Sức Mạnh Vượt Khắp Ba Cõi Đại Bồ Tát (trailokyavikramā), Bồ Tát Đại Biện Tài Đại Bồ Tát (mahāpratibhāna), Bồ Tát Luôn Luôn Tinh Tấn Không Gián Đoạn Đại Bồ Tát (satatasamitābhiyukta), Bồ Tát Thọ Trì Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Đại Bồ Tát (dharaṇiṃdhara), Bồ Tát Tuệ Mati Vô Tận Đại Bồ Tát (akṣayamatā), Bồ Tát Tuệ Mati Lớn Đại Bồ Tát (mahāmatinā), Bồ Tát Tuệ Mati Tịch Tĩnh Đại Bồ Tát (śāntamatinā), Bồ Tát Vua Của Tinh Tú Đại Bồ Tát (nakṣatrarāja), Bồ Tát Ngọc Quý Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Bồ Tát (ratnavairocana), Bồ Tát Di Lặc Đại Bồ Tát (maitreya), và Bồ Tát Sư Tử Đại Bồ Tát (siṃha).
Cùng với 16 vị thiện gia nam tử, do bhadrapāla (Hiền Hộ) làm vị đứng đầu. Những vị thiện gia nam tử ấy là: Bhadrapāla (Hiền Hộ), Tạng Ngọc Quý (ratnākara), Thiện Dẫn (susārthavāha), Nhân Thí (naradatta), Mật Hộ (guhagupta), Thủy Thí (varuṇadatta), Đế Thí (indradatta), Thắng Tuệ Mati (uttaramatin), Biệt Tuệ Mati (viśeṣamati), Tăng Tuệ Mati (vardhamānamati), Vô Năng Kiến (amoghadarśin), Thiện Xuất (susaṃprasthita), Thiện Dũng Lực (suvikrāntavikramin), Vô Đẳng Trí (anupamamatin), Nhật Tạng (sūryagarbha), Địa Trì (dharaṇīṃdhara). Và cùng với 18.000 vị tại gia Bồ Tát, do những vị trên làm người dẫn đầu.
Với Thiên Đế Śakra, vua của chư thiên, cùng quyến thuộc là 20.000 thiên tử. Những vị thiên tử ấy là: Thiên tử Mặt Trăng (candra), Thiên tử Mặt Trời (sūrya), Thiên Tử Biến Hương (samantagandha), Thiên Tử Bảo Quang (ratnaprabha), Thiên tử Quang Chiếu (avabhāsaprabha), và còn có các thiên tử khác, do những vị trên làm thượng thủ.
Cùng với bốn vị Đại Thiên Vương, và quyến thuộc của các ngài. Cùng với Đại Phạm Thiên Vương Sahāmpati, thiên chúa cõi trời Phạm Thiên, và 1.200 vị thiên thuộc cõi trời Phạm Thiên, cùng với Phạm Thiên Sikhī, Phạm Thiên Ánh Sáng Chiếu Soi Jyotiḥprabha, và 12.000 vị thiên tử cõi trời Phạm Thiên, do những vị trên làm thượng thủ.
Cùng với tám vị Long Vương, cùng quyến thuộc là vô số hàng tỷ các Long chúng quyến thuộc. Cùng với bốn vị Kinnara Vương, và quyến thuộc là vô lượng hàng tỷ Kinnara. Cùng với bốn vị thiên tử thuộc loài Gandharva, và vô số trăm ngàn quyến thuộc Gandharva. Cùng với bốn vị A-tu-la Vương, và vô lượng hàng tỷ quyến thuộc A-tu-la. Cùng với bốn vị Kim Sí Điểu Vương (garuḍendra), và vô lượng hàng tỷ quyến thuộc Kim Sí Điểu (garuḍa).
Cùng với vua A-xà-thế (ajātaśatru), nước Ma Kiệt Đà (māgadha), là con của hoàng hậu Vaidehī, cùng với đông đảo quyến thuộc gồm các vua loài người, các đại thần, dân trong thành và các nước chư hầu.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn được vây quanh bởi bốn hội chúng, được tôn kính đặt lên hàng đầu, được cung kính tôn trọng, xem là bậc thầy, được tôn vinh, được cúng dường, được tôn thờ, và được lễ bái cung kính.
Khi ấy, Ngài bắt đầu thuyết giảng một bài giảng pháp có tên là “Sức Mạnh Không Bị Chướng Ngại Không Sợ Hãi Trong Lối Sống” (caryā-vaiśāradyaṃ), là một bài kinh thuộc thể loại Đại Phương Quảng (mahā-vaipulyaṃ), theo sát hạnh Bồ Tát, bao gồm sự nhiếp thọ của tất cả chư Phật, liên quan đến trạng thái hiển lộ cảnh giới Bồ Tát, tập hợp các nguyện trang nghiêm, các cảnh giới của chánh định sâu samādhi, các cửa sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī trang nghiêm, và phần chỉ dạy cốt yếu về thiền định (samādhāna).
Ngay khi ấy, những tia sáng đủ màu sắc phát ra, và với ánh sáng lớn ấy, 3.000 đại thiên thế giới liền được chiếu rọi rực rỡ. Và bởi ánh sáng ấy, những nơi thế giới tối tăm, cõi xen giữa các thế giới, bị cấu uế, bị u ám, bị bao phủ bởi bóng tối dày đặc, nơi mà mặt trăng và mặt trời, cho dù có thần lực lớn và công đức vĩ đại, cũng không thể chiếu sáng, và cũng không thể đến được, tất cả đều được chiếu sáng rực rỡ nhờ ánh sáng kia. Tại đó, những chúng sinh tái sinh trong những cảnh giới ấy, thì ngay cả khi duỗi tay ra, cũng không thấy được tay của chính mình. Ngay tại đó, nhờ ánh sáng kia, họ được chiếu soi rõ ràng, và bắt đầu thấy nhau, biết nhau.
Tất cả các cõi nước của chư Phật đều hiện rõ ràng, và đều được thấy, từ đại địa ngục Vô Gián A-tỳ, cho đến cõi Phạm Thiên, đều hiện rõ ràng và được nhìn thấy. Tất cả các chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi, tại tất cả các thế giới ấy, đều được thấy rõ ràng.
Tất cả các đức Phật Thế Tôn, đang trụ trì, đang hành đạo, đang giáo hóa tại các quốc độ của các đức Phật ấy, và những pháp mà các Ngài thuyết giảng, đều được nghe trọn vẹn.
Và tất cả các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, các hành giả đã thành duy thức (yogin) và những người đang tu tập lối sống duy thức (yogācārāḥ), những người đã chứng quả hoặc chưa chứng quả, tại các cõi Phật ấy, đều được thấy rõ ràng.
Và tất cả các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát tại các cõi Phật ấy, những vị đang thực hành lối sống Bồ Tát, thành tựu các thiện xảo phương tiện, do nhiều nhân duyên và điều kiện như: lắng nghe, ghi nhớ, tin hiểu, nhân, duyên, với nhiều cách thức sai biệt, cũng đều được thấy rõ ràng.
Và các đức Phật Thế Tôn tại các cõi Phật ấy, đã nhập Niết-bàn, cũng đều được thấy rõ ràng. Và các bảo tháp xá-lợi của các đức Phật Thế Tôn đã nhập Niết-bàn, cũng đều được thấy rõ ràng.
Từ hư không, mưa hoa trời rơi xuống khắp nơi, và âm thanh vi diệu vang lên từ trống của chư thiên, ngân vang khắp không gian.
Toàn thể 3.000 đại thiên thế giới chuyển động theo sáu cách và hiện ra 18 điềm lành lớn, rung động, khởi rung, rung dữ dội, run nhẹ, bắt đầu run, run toàn diện, lay động, bắt đầu lay, chuyển động mạnh, xáo động, khuấy động nhẹ, dao động mạnh, rung chuyển, khởi vang, rung vang dữ dội, gầm rống, khởi gầm, và gầm rống mãnh liệt.
Ngay khoảnh khắc ấy, khắp mọi nơi trên thế giới, âm thanh vui mừng, hoan hỷ, làm tâm an lạc, đáng chiêm ngưỡng, làm phấn khởi, êm dịu dễ mến đều vang lên. Không có bất kỳ chúng sinh nào bị tổn hại, kinh sợ, sợ hãi, hay bị tê liệt. Và ánh sáng từ các cõi trời khác đều không thể hiện rõ.
Tất cả chúng sinh tái sinh vào các cảnh giới như địa ngục, súc sinh, và cõi âm giới Diêm Ma (yamaloka) đều lìa khổ đau và được ban cho tất cả an lạc, trở thành an vui cực độ. Không có bất kỳ chúng sinh nào bị chi phối bởi tham dục, sân hận, si mê, xan tham, ganh ghét, kiêu mạn, lười biếng, kiêu ngạo, phẫn nộ, ác ý, hoặc nung đốt trong nội tâm, tất cả đều không có, không hề bị quấy nhiễu.
Tất cả chúng sinh đều khởi tâm từ ái đối với nhau, có tâm lợi ích, và có tưởng niệm như cha mẹ, mọi người đều trở nên như vậy.
Lúc bấy giờ, có một vị chúng sinh tỉnh thức, là một vị Đại Bồ Tát tên là Ratnavairocana - Ngọc Quý Mặt Trời Toàn Giác Vairocana, sau khi thấy tướng trạng thần thông lớn, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đắp thượng y lên một bên vai, đầu gối phải chạm đất, chắp tay cung kính đảnh lễ hướng về đức Thế Tôn, và thưa với đức Thế Tôn rằng:
Thưa đức Thế Tôn, con đã thấy được điều vô cùng kỳ diệu và hy hữu tối thượng. Những tia sáng này từ đâu mà đến? Sức mạnh này thuộc về ai? Thưa Thế Tôn, nguyên nhân nào khiến sự việc ấy xảy ra nơi đây? Điều kiện sắp tới sẽ là gì?
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói với Bồ Tát Ngọc Quý Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Đại Bồ Tát rằng:
Này thiện nam tử, hãy lắng nghe, hãy khéo lắng tâm, đem tâm suy nghĩ một cách đúng đắn. Ta sẽ giảng nói cho ông.
“Lành thay! Lành thay! Thưa đức Thế Tôn!” Bồ Tát Ngọc Quý Mặt Trời Toàn Giác Vairocana liền vâng theo lời dạy của đức Thế Tôn và lắng nghe.
Đức Thế Tôn liền nói với Bồ Tát Ngọc Quý Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Đại Bồ Tát như sau:
Này thiện nam tử, có một thế giới tên là Padmā - Liên Hoa, nằm ở phương Đông Nam, cách đây với số cõi Phật nhiều bằng số cát của 1.000 tỷ sông Hằng.
Thế giới ấy được trang nghiêm bởi nhiều công đức khác nhau, lan tỏa hương thơm của nhiều loài hoa, ngào ngạt bởi các loại hương khác nhau, được trang hoàng bằng cây báu, và rải đầy những ngọn núi báu.
Mặt đất nơi ấy được cấu thành từ lưu ly xanh biếc, đầy dẫy các vị Bồ Tát, và vang vọng âm thanh chánh pháp. Mặt đất ấy, làm bằng lưu ly, mềm mại như bông non, mang lại cảm giác xúc chạm êm dịu và dễ chịu. Khi đặt chân xuống, mặt đất lún xuống bốn ngón tay, khi nhấc chân lên, mặt đất bằng phẳng lại, và được phủ đầy các loại hoa sen khác nhau.
Tại đó, có những cây làm bằng bảy loại báu, cao đến 7 yojanā (84 km). Trên những cây ấy, các y phục màu hoại sắc cõi trời rủ xuống, và các nhạc khí trời phát ra âm thanh vi diệu, ngân nga du dương. Trên những cây ấy, nhiều loài chim cất tiếng hót bằng các âm thanh dễ mến, tuyên thuyết về căn giác quan (indriya), sức mạnh (bala), và các chi phần giác ngộ (bodhyaṅga). Khi các cành lá của những cây ấy chạm vào nhau, chúng phát ra âm thanh vượt cả tiếng của năm loại nhạc khí cõi trời.
Mỗi cây trong số đó, tỏa ra hương thơm tuyệt diệu vượt cả mùi hương thiên giới, lan xa đến cả ngàn yojana. Trên những cây ấy, các loại trang sức cõi trời đều được treo buông rủ xuống.
Giữa các hàng cây ấy, có các tòa lầu các làm bằng bảy báu, cao đến 500 yojana (6000 km), và rộng hơn 125 yojana (1500 km). Trong các tòa lầu các ấy, có các cổng vòm ở bốn phương. Và ở bên ngoài các tòa lầu các ấy, trước các cổng vòm, có những ao sen, dài 80 yojanā (960 km), và rộng 50 yojanā (600 km).
Từ các ao sen ấy, khắp bốn phương, đều có các bậc thang làm bằng bảy báu. Và các ao sen ấy xung quanh, đầy hoa sen làm bằng bảy loại báu, mỗi đóa sen rộng 1 yojana (12 km). Từ các nhụy hoa sen ấy, các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát được sinh ra. Vào canh đầu của đêm, họ sinh ra trong các nhụy hoa sen ấy, và họ trải qua suốt đêm ấy trong tư thế kiết già, trải nghiệm hỷ lạc của trạng thái giải thoát.
Khi đến lúc rạng sáng cuối đêm ấy, những làn gió mát, thơm ngát, nhẹ nhàng, và mang xúc chạm dễ chịu, bắt đầu thổi lay động. Những làn gió ấy, khiến các hoa sen đang khép lại nở rộ. Các vị Bồ Tát ấy, thoát ra khỏi chánh định samādhi, thu nhiếp lại hỷ lạc giải thoát, và từ nhụy hoa sen bước xuống. Họ bước vào các tòa lầu các, ngồi kiết già trên các tòa ngồi bằng bảy loại báu, và lắng nghe Chánh pháp.
Giữa các hàng cây và lầu các, ở bốn phương, có các núi làm bằng vàng ròng jāmbunada, cao 20 yojanā (240 km), rộng 3 yojanā (36 km). Trên các ngọn núi ấy, có hàng trăm ngàn viên ngọc quý như ngọc nhật quang sūryakānta, ngọc nguyệt quang candrakānta, và ngọc lưu ly thiên thanh indranīla, phát ra ánh sáng, hiện rõ ở giữa các tầng lớp núi.
Hào quang của đức Phật Liên Hoa Tối Thượng Như Lai (padmottara) chiếu rọi lên các viên ngọc quý maṇi nơi núi ấy, và cùng với hào quang đức Phật và ánh sáng của các ngọc báu, toàn thể thế giới Liên Hoa ấy đều hiện rõ ràng, với ánh sáng thanh tịnh và thường chiếu.
Và tại thế giới ấy, ánh sáng của mặt trăng và mặt trời không hiện ra, không có dấu hiệu nào khác, chỉ khi nào các hoa sen khép lại, và các loài chim phát ra âm thanh nhỏ, thì khi ấy mới gọi là đêm; còn ngược lại, thì là ban ngày.
Trên đỉnh các núi ấy, có các tòa lầu các làm bằng lưu ly xanh biếc, cao 60 yojanā (720 km), và rộng 20 yojanā (240 km).
Từ các lầu các ấy, ở bốn phương, có các cổng vòm bằng bảy báu, và cũng từ các tòa lầu ấy, có các tòa ngồi làm bằng bảy báu, nơi các vị Bồ Tát chỉ còn một đời nữa là thành Phật, ngồi nghe Chánh pháp.
Này thiện nam tử, tại thế giới Liên Hoa, có cây Bồ Đề tên là Indra, cao 3000 yojana (36.000 km), rộng 500 yojana (6000 km), và cành lá lan tỏa đều đặn suốt một 1000 yojana (12.000 km). Dưới gốc cây Bồ Đề ấy, có một hoa sen với cuống bằng bạc, cao 500 yojana (6000 km). Hoa sen ấy có 1.000 tỷ cánh sen bằng vàng, mỗi cánh cao 15 yojanā (180 km). Tất cả các nhụy sen đều có những nhị con làm bằng đá quý, và các nhụy chính làm bằng bảy loại báu, cao 10 yojanā (120 km), và rộng 7 yojanā (84 km).
Hôm nay là đêm đầu tiên tại thế giới ấy, đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Quanh tòa sen nơi đức Phật ngồi, có vô số hoa sen, nơi các vị Bồ Tát an tọa, để chiêm ngưỡng các thần thông biến hoá của đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.
Khi lời ấy được nói ra, Bồ Tát Ngọc Quý Mặt Trời Toàn Giác Vairocana liền thưa với đức Thế Tôn rằng:
Thưa đức Thế Tôn, đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai đã thực hiện bao nhiêu loại thần thông biến hoá lớn?
Sau khi nghe lời ấy, đức Thế Tôn nói với Bồ Tát Ngọc Quý Mặt Trời Toàn Giác Vairocana rằng:
Vừa vào canh cuối của đêm nay, đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vào lúc rạng sáng của đêm nay, Ngài đã thực hiện sự trang nghiêm thần thông lớn. Ngài hiện thân rộng khắp cho đến cõi trời Phạm thiên, và từ đảnh kế đỉnh đầu của Ngài phát ra 6.000 tỷ tỷ tỷ tia sáng. Các tia sáng ấy chiếu rọi lên phương trên, chiếu sáng các thế giới nhiều như các hạt hạ lượng tử trong các cõi Phật.
Những vị Bồ Tát đang an trú ở phương trên vào lúc ấy, khi nhìn xuống, thì núi Sumeru, các vòng xoáy thiên hà, các vòng xoáy thiên hà lớn, và cả trung tâm các lỗ đen thiên hà, đều hiện ra trong ánh sáng ấy.
Các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát, là những vị từ các cõi Phật ấy đã được thọ ký, hoặc đã chứng đắc các chánh định samādhi, chứng đắc các sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, chứng đắc các nhẫn nhục, vượt qua các tầng địa, và những vị chỉ còn một đời nữa là thành Phật, đều hiện rõ nhờ ánh sáng ấy.
Họ chắp tay, chiêm ngưỡng sắc thân của đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, thấy thân ấy được trang nghiêm với 32 tướng tốt, và 80 vẻ đẹp, thấy hội chúng Bồ Tát ấy, và thế giới Liên Hoa, và sự trang nghiêm công đức của cõi Phật, tâm họ khởi lên niềm hoan hỷ tột bậc.
Các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát ấy, từ vô số thế giới nhiều như số hạt hạ lượng tử trong các cõi Phật, không thể đếm được, rời bỏ các quốc độ của mình, và nhờ sức mạnh thần thông, đều đến được thế giới Liên Hoa, để lễ bái, tôn kính, thân cận, phụng thờ đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.
Này thiện nam tử, đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai đã duỗi ra căn lưỡi từ nơi miệng, và với căn lưỡi ấy, Ngài đã che phủ toàn bộ thế giới gồm cả bốn châu thiên hạ, cùng tất cả những người đang ngồi, đang đứng, và đang đi kinh hành trong thế giới ấy.
Những vị Bồ Tát an trụ trong các chánh định nơi đây, đã từ các chánh định samādhi ấy mà xuất định, và toàn thể hội chúng trong thế giới Sarvāvatī đều phát tâm chuẩn bị làm các việc cúng dường lên đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, thu nhiếp lại căn lưỡi, sau khi đã thực hiện thần thông nơi căn lưỡi. Rồi, đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, từ toàn thân của mình, từ mỗi lỗ chân lông, và từng lỗ chân lông, phóng ra 6.000 tỷ tỷ tỷ tia sáng, chiếu rọi khắp mười phương, mỗi phương đều chiếu sáng các thế giới nhiều như số hạt hạ lượng tử của các cõi Phật, bằng ánh sáng rực rỡ vi diệu.
Các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát, đã được thọ ký từ những cõi Phật ấy, là những vị đã chứng đắc chánh định samādhi, họ cũng đều là Bồ Tát và Đại Bồ Tát, từ các cõi Phật riêng của mình, nhờ vào thần lực, đã đến được thế giới Liên Hoa, để được chiêm ngưỡng, đảnh lễ, cúng dường, và thân cận phụng thờ đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, sau khi thu nhiếp lại các phương tiện thần thông, tại hội chúng Bồ Tát trong cõi Sarvāvatī ấy, đã chuyển vận bánh xe chánh pháp, gọi là bánh xe của những bậc Bất Thoái Chuyển, vì lợi ích cho nhiều người, vì an vui cho nhiều người, vì lòng thương xót thế gian, vì mục đích, vì lợi ích và hạnh phúc cho chư thiên và loài người, và để thành tựu viên mãn Đại Thừa.
Đây là Phẩm thứ nhất có tên là “Chuyển Bánh Xe Chánh Pháp”, thuộc Thánh Kinh Đại Thừa Hoa Sen Trắng Puṇḍarīka Đại Bi Thanh Tịnh, đến đây là hoàn tất.
dvitīyo dhāraṇī-mukha-parivartaḥ
2. Phẩm Cửa Vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Ngọc Quý Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Đại Bồ Tát thưa với đức Thế Tôn rằng:
Thưa đức Thế Tôn, trong thế giới Liên Hoa, ngày và đêm được nhận biết như thế nào? Và những âm thanh được nghe ở nơi ấy, có hình dạng và đặc tướng như thế nào? Những vị Bồ Tát ấy có tâm nguyện ra sao, được vận hành bằng những đặc tướng ở mức độ và cách thức nào? Và các Ngài an trú trong lối sống nào?
Đức Thế Tôn nói rằng:
Này thiện nam tử, thế giới Liên Hoa được ánh sáng của đức Phật chiếu rọi không ngừng, thường xuyên phát sáng.
Ở nơi ấy, khi các hoa khép lại, và chim chóc phát ra âm thanh nhẹ, đức Như Lai và các vị Bồ Tát ấy, an vui trong các tầng thiền, trải nghiệm trạng thái an lạc hoan hỷ của giải thoát. Khi ấy được biết là ban đêm.
Lại nữa, khi những bông hoa ấy bị gió thổi lay, các loài chim hót lên âm thanh vi diệu, thích ý, và mưa hoa rơi xuống liên tục, bốn phương đều có các làn gió thơm ngát, dịu dàng, dễ chịu xúc chạm, và các luồng gió ấy lan tỏa, đức Như Lai ấy xuất định từ chánh định samādhi, và đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, bỏ qua các giáo pháp dành cho Thanh Văn và Độc Giác Phật, trực tiếp thuyết giảng Pháp Tạng của Bồ Tát dành cho các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát. Do vậy, khi ấy được nhận biết là ban ngày.
Này thiện nam tử, các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát nơi ấy, không bao giờ xa rời tiếng của đức Phật, tiếng của chánh pháp, tiếng của thánh Tăng, và cũng không xa lìa tiếng biện tài vô ngại, tiếng không sợ hãi, tiếng hoàn toàn không tạo tác, tiếng về trạng thái vô sinh, tiếng về trạng thái diệt tận, tiếng về trạng thái tịch tĩnh, tiếng về trạng thái lắng dịu, tiếng về trạng thái an tịnh viên mãn, tiếng đại từ, tiếng đại bi, tiếng về các pháp không sinh khởi, tiếng về trạng thái chứng đắc địa vị quán đảnh, tiếng về Phật và Bồ Tát. Các vị ấy không bao giờ xa rời những âm thanh như thế.
Các vị Bồ Tát ấy, luôn luôn nghe được những âm thanh có hình tướng như vậy.
Lại nữa, này thiện nam tử, những vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát nào đã tái sinh, hoặc sẽ tái sinh trong thế giới Liên Hoa, tất cả các vị ấy đều đầy đủ 32 tướng tốt của bậc Đại Nhân, ánh sáng chiếu xa đến 1 yojana (12 km), và hoàn toàn sống với Tánh Rỗng Không cho đến khi thành Tỉnh thức.
Tất cả các vị Bồ Tát ấy đều có tâm từ, tâm nhu hòa, tâm không ô nhiễm, tâm đã điều phục, tâm nhẫn nhục, tâm an trụ, tâm thanh tịnh hoan hỷ, tâm không bị chướng ngại, tâm thanh khiết, tâm lành thiện, tâm hoan hỷ với Chánh pháp, tâm luôn mong dập tắt phiền não cho tất cả chúng sinh, tâm bình đẳng như đất, tâm không ưa thích nơi lời nói thế gian, tâm chỉ ưa thích nơi lời nói xuất thế, tâm luôn tìm cầu tất cả các pháp lành, tâm luôn vận hành trong cảnh giới không chấp thủ, tâm an tịnh trước bệnh tật, già và chết, tâm thiêu đốt tất cả phiền não, tâm làm lắng dịu mọi trói buộc, và tâm không xem tất cả các pháp là tự ngã của mình.
Họ là những vị có sức mạnh của tâm nguyện, sức mạnh của trạng thái vận hành duy thức, sức mạnh của duyên khởi, sức mạnh của đại nguyện, không bị dao động bởi cái không cốt lõi, có sức mạnh bất động, sức mạnh quán chiếu nội tâm, sức mạnh của căn lành, sức mạnh của chánh định samādhi, sức mạnh của tri thức nghe pháp, sức mạnh của giới hạnh, sức mạnh của xả ly, sức mạnh của nhẫn nhục, sức mạnh của tinh tấn, sức mạnh của thiền định dhyāna, sức mạnh của tuệ giác prajñā, sức mạnh của thiền chỉ śamatha, sức mạnh của thiền quán vipaśyanā, sức mạnh của thần thông, sức mạnh của chánh niệm, sức mạnh của Tỉnh thức, sức mạnh phá tan mọi ma lực, sức mạnh hàng phục tất cả sức mạnh của ma, sức mạnh nhiếp phục các ngoại đạo bằng chánh pháp, sức mạnh đoạn trừ mọi phiền não.
Những vị Bồ Tát ấy, và những ai đã hoặc sẽ tái sinh trong thế giới Liên Hoa ấy, đều đã từng phụng sự vô số hàng trăm ngàn đức Phật, và đã tích lũy các căn lành không gián đoạn.
Những vị Bồ Tát nào đã hoặc sẽ tái sinh trong cõi Phật thế giới Liên Hoa ấy, họ lấy thiền định làm thức ăn, lấy chánh pháp làm dưỡng chất, lấy hương thơm vi diệu làm nuôi dưỡng, giống như chư thiên ở cõi trời Phạm thiên. Và nơi ấy, không hề thấy có sự thọ thực bằng vật chất từng miếng nhỏ, ăn từng muỗng, từng phần thô như ở thế gian này.
Nơi ấy, hoàn toàn không hề có dấu vết nào của điều bất thiện, điều ác, ngay cả cái tên cũng không tồn tại. Nơi ấy, cũng hoàn toàn không hề có cái gọi là “tình dục, sự sinh sản, và làm mẹ”, ngay cả danh từ ấy cũng không tồn tại. Nơi ấy, hoàn toàn không có âm thanh hay ý niệm nào liên quan đến khổ đau. Tuyệt đối không có ý niệm về thương – ghét. Tóm lại, không có tiếng nói hay khái niệm nào về phiền não, không có sự nắm giữ hay chấp thủ.
Nơi ấy không hề có bóng tối, không có mùi hôi, không có sự mệt mỏi của tâm, không có sự rã rời của thân, không có bất kỳ âm thanh nào nói về địa ngục, súc sinh, hay cõi ngạ quỷ, và ngay cả tên gọi giả danh về ba đường ác cũng không tồn tại, không hề có các bụi rậm đầy gai, đá tảng hay sỏi nhọn, không có lửa, không có mặt trăng và mặt trời, không có hình dạng của các vì sao, không có biển lớn, không có núi Sumeru và các vòng xoáy thiên hà, không có khoảng không ngoài thế giới, không có núi thời gian, không có đá dơ, không có núi cát, không có tiếng sấm mưa, không có tiếng gió độc. Tuyệt đối, không có âm thanh nào biểu thị cho cõi ác, cũng không có khái niệm về giây phút sinh diệt sát-na.
Và lại nữa, thế giới Liên Hoa luôn luôn thịnh vượng, đức Phật, và các vị Bồ Tát, công đức, và báu vật, tất cả đều hiện rõ dưới ánh sáng vi diệu.
Và nơi ấy, các loài chim đều thành tựu quả báo thiện, âm thanh của chúng rất du dương, êm dịu, và mỗi loài đều phát ra những âm thanh tượng trưng cho các sức mạnh giác quan (indriya-bala) và các chi phần giác ngộ (bodhyaṅga).
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Ngọc Quý Mặt Trời Toàn Giác Vairocana thưa với đức Thế Tôn rằng:
Thưa đức Thế Tôn, thế giới Liên Hoa ấy rộng lớn bao nhiêu?
Đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai ấy trụ thế, tồn tại, duy trì thọ mạng và giảng nói chánh pháp trong bao lâu? Và từ đêm hôm nay, Ngài vừa mới chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì tính cho đến khi đức Như Lai ấy nhập Niết Bàn là bao lâu? Sau khi đức Như Lai ấy nhập Niết Bàn, thì chánh pháp sẽ còn tồn tại bao lâu?
Những vị Bồ Tát, đã hoặc sẽ tái sinh trong cõi Phật thế giới Liên Hoa ấy, thì họ sẽ trụ thế bao lâu?
Các vị Bồ Tát ấy có phải sẽ bị thiếu vắng việc thấy Phật, nghe pháp, và thân cận Tăng đoàn hay không?
Thế giới Liên Hoa ấy trước kia có tên gọi là gì? Và sau khi Bậc Mặt Trời Chiến Thắng tại quốc độ đó nhập diệt, thì đã mất bao lâu, mới đến thời điểm mà đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?
Có điều gì khiến cho đồng thời ở mọi nơi, người ta đều có thể thấy được những biến hóa của đức Phật ấy và những việc thần biến ấy? Tại sao khi các đức Phật Thế Tôn khác ở trong mười phương, tại các cõi Phật khác nhau, thị hiện các loại thần biến, nhưng tại sao lại không thể thấy những thần biến của các đức Phật ấy đồng thời tại một nơi?
Khi những câu hỏi ấy vừa được nêu ra, Đức Thế Tôn nói rằng:
Này thiện nam tử, lấy một ví dụ, núi Sumeru, vua của các ngọn núi, cao 68.000 năm ánh sáng, rộng 84.000 năm ánh sáng. Nếu có người đến, với sức mạnh tinh tấn, có sức mạnh mẽ, hoặc nhờ vào sức mạnh chánh định samādhi, có thể đập nát núi Sumeru, vua của các ngọn núi, thành những hạt nhỏ như hạt cải. Những hạt cải ấy nhiều vượt ngoài sự tính đếm, không thể nào có ai đó đếm được, ngoại trừ bậc có Trí Toàn Tri (sarvajña-jñāna). Có bao nhiêu hạt cải, thì có bấy nhiêu là các thiên hà. Cũng như vậy, tập hợp không gian của tất cả các thiên hà nhiều như số hạt cải ấy, thì thế giới Liên Hoa lớn bằng kích thước ấy. Cõi Phật thế giới Liên Hoa cũng đầy dẫy các vị Bồ Tát, giống như thế giới Cực Lạc Sukhāvatī đầy khắp các vị Bồ Tát.
Này thiện nam tử, đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, có thọ mạng 30 tiểu kiếp, trong suốt thời gian ấy, Ngài tồn tại, kéo dài thọ mạng, và thuyết pháp.
Sau khi đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác nhập Niết Bàn, thì chánh pháp sẽ tồn tại trong 10 tiểu kiếp.
Đối với các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát, những vị đã tái sinh hoặc sẽ tái sinh trong thế giới Liên Hoa, thì thọ mạng của họ kéo dài 40 tiểu kiếp.
Này thiện nam tử, trước kia, thế giới Liên Hoa ấy có tên là Chandanā - Trầm Hương Chandanā. Nhưng thế giới ấy lúc bấy giờ không được thanh tịnh như hiện nay, cũng không được đầy khắp các bậc chúng sinh thanh tịnh, như hiện tại của thế giới Liên Hoa.
Này thiện nam tử, trong thế giới Trầm Hương Chandanā, đã có một đức Thế Tôn tên là Candrottama - Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn. Ngài ấy đã thuyết giảng Chánh pháp trong suốt 20 tiểu kiếp.
Vào lúc Ngài ấy sắp nhập Niết-bàn, có một phần các vị Bồ Tát, nhờ vào sức mạnh của nguyện lực, đã chuyển sinh sang các quốc độ Phật khác. Còn những vị Bồ Tát nào còn sót lại, thì với họ, Ngài đã nói điều này:
“Vào canh giữa của đêm nay, Ta, Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, sẽ nhập Niết-bàn.”
Sau khi đức Thế Tôn ấy nhập Niết Bàn, Chánh pháp sẽ tồn tại trong 10 tiểu kiếp. Ai là người sẽ chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ngay sau khi Chánh pháp đã biến mất?
Lúc bấy giờ, có một vị Bồ Tát tên là Gaganamudra - Ấn Hư Không. Vị ấy, nhờ nguyện lực từ trước, đã được đức Thế Tôn Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác thọ ký như sau:
“Này thiện nam tử, ông trong tương lai, sau khi Ta đã nhập Niết Bàn, Chánh pháp sẽ tồn tại trong 10 tiểu kiếp. Vào canh đầu của đêm, khi Chánh pháp của Ta hoàn toàn biến mất, ngay trong đêm đó, vào canh cuối, ông sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ông sẽ có danh hiệu là Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.”
Ngay lúc ấy, các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát, đã đến gần nơi đức Thế Tôn Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, bằng cách ấy. Sau khi đến, các vị ấy đã cúng dường đức Thế Tôn Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai, đi nhiễu bên phải ba vòng, rồi thưa với đức Thế Tôn ấy rằng:
“Chúng con mong muốn, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, với tâm chuyên chú, nguyện vượt qua 10 tiểu kiếp như chớp mắt.”
Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri (sarvajñātākāra-dhāraṇī)
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, nói với Bồ Tát Ấn Hư Không Đại Bồ Tát như sau:
Này thiện nam tử, hãy lãnh thọ Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri (sarvajñātākāra-dhāraṇī). Pháp này đã được tất cả các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác trong quá khứ tuyên thuyết cho những vị Bồ Tát đã được quán đảnh làm Thái tử. Và các đức Phật Thế Tôn wasqhiện tại đang thường trụ, duy trì, và thuyết pháp trong mười phương thế giới, các đức Phật Thế Tôn ấy cũng đều tuyên thuyết pháp này cho các vị Bồ Tát được quán đảnh Thái tử.
Và các đức Phật Thế Tôn sẽ xuất hiện trong tương lai, chính các Ngài cũng sẽ tuyên thuyết Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này cho các vị Bồ Tát được quán đảnh làm Thái tử.
Khi ấy, đức Thế Tôn Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai tuyên nói thần chú như sau:
(Để tu tập thành công các thần chú này, người thực hành duy thức cần phải an trú nơi tự tánh Tỉnh Thức của chính mình, để cho 3 thứ của chính mình, gồm Trí Tuệ - là trí thấy biết (jnana), và Tuệ Giác - là tuệ lặng lẽ giác biết tất cả (prajña), và cái Thấy (darsana) của chính mình thẳng hàng với nhau. Ngay lúc đó, Tuệ Mati - là Tuệ Tỉnh Thức (mati) của chính mình sẽ hiện rất rõ. Tuệ Mati này của chính mình là hoàn toàn không nỗ lực có chủ ý, không hành dụng, không dụng công, không tạo tác tâm hành, không ô nhiễm, hoàn toàn trong sạch tuyệt đối thanh tịnh. Người thực hành duy thức nhận thức rõ được Tuệ Mati Tỉnh Thức của chính mình, dùng Tuệ Mati này để thực hành thần chú thì sẽ hoàn toàn thành tựu.)
Thần chú nền tảng của Bốn Niệm Xứ
jalijalini mahājalini phutke butke sammade mahāsammade devāṃ aṭi caṭi ṭake ṭharaṭhakke amimakasi hilicilitili ruruke mahāruruke jaye durjaye jayamati śānte śāntanirghoṣaṇi amūle ale amūlaparichinne mārasainya vitrāsane mukte muktapariśuddhe abhīte bhayamocane bhāradroharaṇā dānta vidyāvidyā varuttame.
Tự mình là dòng nước Tỉnh Thức chảy xuyên suốt, tự mình là dòng nước Tỉnh Thức chảy xuyên suốt lớn, tự mình phá tan mọi chướng ngại, tự mình khuấy động mọi sức mạnh tiềm ẩn, tự mình là hoan hỷ viên mãn, tự mình là an lạc hoan hỷ viên mãn lớn, tự mình nhanh chóng nhẹ nhàng như chư thiên, tự mình là sấm sét, tự mình chấn động rung chuyển như sấm sét, tự mình là hoàn toàn không còn nghi hoặc, hoàn toàn bất động, vượt ngoài ngôn ngữ, tự mình là thanh tịnh, nhẹ nhàng, mềm mại, tự mình là tiếng gầm rống sư tử, tự mình là tiếng gầm rống sư tử lớn, tự mình là chiến thắng, tự mình là chiến thắng điều khó thắng, tự mình là tuệ mati chiến thắng, tự mình là an tĩnh, tự mình là tiếng vang an tĩnh, tự mình là siêu việt gốc rễ thế tục, tự mình là bảo hộ, tự mình là không bị chặt dứt, không bị phân chia, không bị giới hạn bởi các gốc rễ thế tục, tự mình là làm kinh hoàng đạo binh ma, tự mình là giải thoát, tự mình là hoàn toàn thanh tịnh giải thoát, trong sạch tuyệt đối, tự mình là không còn lo sợ, tự mình là giải thoát hoàn toàn khỏi tất cả sợ hãi, tự mình là tiêu trừ tất cả gánh nặng của sự phản nghịch, phản bội, độc hại, phá hoại, tự mình là đã được điều phục, đã chế ngự các căn, tâm định, tịch tĩnh, tự mình là trí tuệ minh hàng phục vô minh, tự mình là tối thượng cao quý.
Đây là trạng thái hiển bày nền tảng của sự quyết định chân thật, là nơi hiển lộ của bốn niệm xứ (thân, thọ, tâm, pháp). Là trạng thái bảo hộ dành cho những bậc thuyết pháp chơn chánh, là trạng thái trợ giúp của họ, là trạng thái hàng phục những kẻ theo tà kiến, những người chủ trương lập thuyết đối nghịch.
Thần chú nền tảng của Bốn Thánh Đế
buddhakāśaye amama nimama avevi arthe arthani stīraṇe lokādhimukte sandadha paribhāvane.
Tự mình là cảnh giới không gian Toàn Giác, tự mình là vô ngã, tự mình không chấp vào tự ngã hay sở hữu ngã, tự mình là biết rõ thông suốt, tự mình là mục tiêu ý nghĩa, tự mình là nền tảng vững chắc kiên cố, tự mình là hoà hợp hướng đến của thế gian, tự mình chiếu soi thấu hiểu.
Đây là trạng thái hiển bày nền tảng của sự quyết định chân thật, là nơi hiển lộ Bốn Thánh Đế.
Thần chú hộ trì ba nghiệp Thân, Khẩu và Ý
bhāṣīthe bhāṣaṇe dhāre dhārayati gupte śubhe śubhaprade tatphale agraphale'niṣphale nilaha samukta amukta nirmukte atravita vimuktavati vilaphala ayukta iviti diviti ratitula tulamaṃ ahiṃsāma ititāva atvānatvāna sarvaloka anaka livindha abhūsare hatamatte veśāgravate aphala kaphala.
Tự mình là lời thuyết giảng, tự mình là pháp giảng, tự mình thọ trì, tự mình trì giữ, tự mình là ẩn mật, tự mình là cát tường, tự mình là ban điều lành cát tường, tự mình là kết quả, tự mình là kết quả tối thượng, tự mình là kết quả thành tựu, tự mình giải thoát khỏi đen tối mờ mịt, những gì chưa được giải thoát, tự mình là được giải thoát, tự mình là không sợ hãi lo lắng, tự mình là trạng thái thành tựu giải thoát trước những gì là quả tách biệt, không hợp nhất, bị phân tán, hư hoại, rối loạn. Đi đúng như thế, tự mình là cân bằng, an lạc thiên giới, tự mình là cán cân cân bằng cao nhất, tự mình là tâm không bạo lực, chính xác như thế, tự mình hoàn toàn từ bỏ ý niệm có ngã và vô ngã. Tất cả những gì bị ràng buộc trong thế gian, không trang nghiêm, không đẹp đẽ, tự mình đã huỷ diệt tiêu tan mọi say mê, ảo giác, tự mình hoàn toàn không bị dính mắc ngoại hình, y phục, không còn bị ảnh hưởng bởi phi kết quả, và quả xấu.
Đây là trạng thái hiển bày nền tảng của sự quyết định chân thật, hộ trì ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh.
Thần chú làm hiển hộ Bốn Đoạn Trừ Chân Chánh
jaḍataḥ aniharavavatavyo idaṃ phalaṃ niyomaphalaṃ samudānāya vibhuṣa paśya sāmantra anumanto akumanto chedāvane mantrastā daśabala vigrahasthā isusthita sunikhama tīkṣṇamati āloko atitṛṣṇā adimati.
Trạng thái ngu độn, không thể ngăn cản hay che giấu tự mình, điều này là kết quả và thành quả đạt được của trạng thái điều phục bằng giới luật tự mình, tự mình là hoàn toàn trang nghiêm, tự mình là cái thấy rõ ràng, tự mình là thần chú, tự mình là người đồng ý, tự mình là không độc hại, không gây hại, tự mình là tiêu trừ cắt đứt tất cả ràng buộc, tự mình là an trú trong thần chú, tự mình là 10 lực của chư Phật trong thân thể nơi chính mình. Tự mình là mũi tên tập trung mạnh mẽ sắc nhọn vững chắc, đâm xuyên một cách thiện xảo, tự mình là tuệ mati sắc bén, ánh sáng chiếu soi, vượt qua mọi khát ái ham muốn, tự mình là tuệ mati nguồn gốc nguyên thuỷ.
Đây là trạng thái hiển bày nền tảng của sự quyết định chân thật, hiển lộ bốn sự đoạn trừ chân chánh, trước đó đã được khởi phát từ các đức Phật.
Thần chú nền tảng của Bốn Biện Tài vô ngại
anye manye mane mamane vire virate śame śamitā viśānte mukte nirakṣame same samasame kṣaye akṣaye ajiti śānte samiṣṭhe dhāraṇī ālokāvabhāse ratnavrate raśmyavate jñānavate meruvate kṣayanidarśane lokapradīpanidarśane.
Tự mình không phải là ai khác, tự mình suy nghĩ, tự mình nhận thức, tự mình là chính mình, tự mình là anh hùng, tự mình xa lìa, tự mình là an tĩnh, tự mình là bậc đã được làm lắng dịu, tự mình đoạn tận, tự mình là giải thoát, tự mình là không sân giận, tự mình là trạng thái bình đẳng, tự mình là đỉnh điểm hoàn toàn bình đẳng, tự mình diệt tận, tự mình bất động, không bị huỷ diệt, tự mình vô ngại, không bị ai khuất phục, tự mình là tĩnh lặng, tự mình là bậc tối thượng, tự mình là sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, tự mình là ánh sáng chiếu soi, tự mình là ngọc quý hạnh nguyện, tự mình là hào quang rực rỡ, tự mình là trí tuệ, tự mình trung tâm và bất động như núi meru, tự mình hiển bày sự đoạn diệt hoàn toàn phiền não sinh tử, tự mình hiển bày ánh sáng chiếu soi thế gian.
Đây là nơi hiển lộ cảnh giới chứng nhập của bốn trí biện tài.
Thần chú làm hiển lộ Bốn Nền Tảng Thần Thông
cakṣa ābhāsanidarśane jñānālokanidarśanaṃ ca prabhāsane sarvendriya bhūmātikrante sarvasarve vamāṃ sarve prāthavā kṣayaṃ kare gokāha vadane lokānudarśana vibhū.
Tự mình hiện rõ qua ánh sáng hiện ra trước mắt, tự mình hiện rõ qua ánh sáng của trí tuệ, tự mình đã vượt qua hoàn toàn các tầng địa của tất cả các căn giác quan, tự mình là tất cả, tự mình là gốc phát khởi tất cả, tự mình đoạn trừ hoàn toàn, tự mình là cửa phát ra mọi sinh giới, tự mình là đấng vĩ đại toàn thiện quán sát không ngừng về thế gian.
Đây là nơi hiển lộ cảnh giới chứng nhập của bốn nền tảng thần thông.
Thần chú chứng nhập Các Căn Giác Quan và Các Lực Sức Mạnh
acale buddhe dṛhapracale sattve gṛhna siddhi kaṃpati nisiddha smahiddhe parekasire some caṇḍe datve acale acale apare vicivale nipare pracacale prasare anayan prabhyāse kaṃkame prabhāvini same nijase grakrame nayute.
Tự mình là bất động, tự mình là toàn giác, tự mình là kiên cố không dao động, tự mình là chúng sinh, tự mình thành tựu thần lực, các hiện tượng rung chuyển, chuyển động, tự mình chặn lại, tự mình là đại thần lực chính trực, tự mình là vượt qua bờ bên kia, tự mình là an lạc thanh tịnh, tự mình là sức mạnh phá chướng mãnh liệt, tự mình ban phát, tự mình là bất động, tự mình là hoàn toàn bất động, tự mình là bờ bên kia, tự mình vận hành qua mọi phân tán, tự mình chuyển hoá các trạng thái rối loạn, tự mình thâm nhập bờ bên kia, tự mình lan toả và chuyển hoá, tự mình mở rộng phóng ra, tự mình là hướng dẫn dắt, tự mình là sự nỗ lực tối thắng, tự mình là không do dự, không phân vân, tự mình là sức mạnh toả chiếu, ảnh hưởng mạnh mẽ, tự mình là bình đẳng, hoàn toàn tự chủ bình đẳng, tự mình là bản thể chân thực, tự mình là tự chủ trong sự vận hành có trật tự, tự mình là vô lượng.
Đây là nơi hiển lộ cảnh giới chứng nhập của các căn giác quan và các lực sức mạnh.
Thần chú chứng nhập Bảy Chi Phần Tỉnh Thức
puṣpe supuṣpe drumaparihāre abhayarucire cekaratke akṣayamastu ninile mamale pañcaśiśire lokasya vijñāne nayasaṃgṛhīte ca yukte succendena.
Tự mình là hoa, tự mình là hoa tốt đẹp, tự mình là lõi cây hộ vệ, tự mình là ánh sáng không sợ hãi, tự mình là sự vận hành vi tế, tự mình là vĩnh cửu không hư hoại, tự mình là trong sáng thanh khiết, tự mình là thanh tịnh hoàn toàn khỏi cấu uế, tự mình là toàn diện năm loại mát mẻ thanh lương, tự mình là tri thức của thế gian, tự mình là bậc thâu nhiếp phương tiện thiện xảo, và tự mình là bậc hợp nhất bằng ánh sáng ý chí thanh tịnh.
Đây là nơi hiển lộ cảnh giới chứng nhập của bảy chi phần Tỉnh Thức.
Thần chú chứng nhập Bốn Loại Biện Tài Không Sợ Hãi
cakravajre maitra samāpade krānte kete karuṇa rudīkṣayi prītirūpe kṣamasaṃpanne arake varate kharo khare amūle mūle sādhane.
Tự mình là bánh xe kim cương, tự mình là viên mãn tâm từ ái, tự mình là vượt thoát, tự mình là biểu tượng thiêng liêng, tự mình là tâm đại bi, tự mình là người tràn đầy bi mẫn khi nhìn chúng sinh đau khổ, tự mình là hình thái hoan hỷ, tự mình là đầy đủ hạnh nhẫn nhục, tự mình là không bị chướng ngại, tự mình là bậc cao quý tốt lành, tự mình là sắc bén mãnh liệt, tự mình là không bị trói buộc bởi gốc rễ thế tục, tự mình là nền tảng, tự mình là thực hành chân chánh.
Đây là nơi hiển lộ cảnh giới chứng nhập của bốn loại vô úy biện tài.
Thần chú chứng nhập Mười Lực của Như Lai
vartte cakre cakradhare varacakre vare prare hile hile dhare ārūpāvate huhure yathā jibhaṃga niṃbare yathāgne yathāparaṃ cariniśe yathā bhayaririśi satyanirhāra jaracavila vīryanirhāra cure mārganirhāra samādhinirhāra prajñānirhāra vimuktinirhāra vimuktijñānadarśananirhāra nakṣatranirhāra candranirhāra sūryanirhāra padāścaturuttaratathāgatena adbhutaṃ niradbhutaṃ saṃbuddhaṃ abuddha ihabuddhaṃ tatrabuddhaṃ nihaṃgamapare alaha dalaha paṇḍare paṇḍare tatrāntalu māṃgagharaṇi pūṭani saṃpūṭani gatapraṃgamanuniruva nāśani nāśabandhani cicchini cicchidra mayova hidiṃgamā vare mare hanane bharaṃ bhare bhinde bhire bhire ruṣare śaraṇe darane pravartte varaṇāḍaye vidranvumā varakhumā brahmacāriṇa indravani dhidhirāyani maheśvaralalani mamasume alamini ekākṣaraci vaṃcani carasti ābhicaṇḍāla sūre sarvasurā āvarasurā punakanitāṃ paṇḍitāṃ āyinakaṇḍi jabhāme gandhare atra runimakare bhirohiṇī siddhamatte vilokamate.
Tự mình vận hành, tự mình là bánh xe pháp, tự mình là người nắm bánh xe pháp, tự mình là bánh xe tối thượng, tự mình là tối thắng, tự mình là khởi động mạnh mẽ, tự mình là khai mở sức mạnh, diệt trừ chướng ngại, tự mình là đấng duy trì, tự mình là đấng trú tại vô tướng, tự mình là sức mạnh bí mật linh thiêng, tự mình là giống như mọi lời nói đều dứt bặt, tự mình như ngọn lửa tự bừng cháy trong không gian tối tăm sâu thẳm, tự mình là giống như sự siêu vượt khi di chuyển trong đêm tối u minh, như là nỗi sợ đối với kẻ thù, sự huỷ hoại bởi già nua, tan rã do lão hoá, tự mình là chân lý loại trừ tất cả. Tự mình dẹp bỏ những chướng ngại đối với tinh tấn, tự mình là thanh lọc chữa lành, tự mình là loại trừ những chướng ngại trên đạo lộ Tỉnh Thức, tự mình là loại trừ những chướng ngại của chánh định samādhi, tự mình là loại trừ những chướng ngại đối với tuệ giác, tự mình là loại trừ mọi chướng ngại trên con đường giải thoát, tự mình là dẹp trừ mọi chướng ngại đối với trí tuệ và thấy biết chân thực về giải thoát, tự mình là loại trừ mọi sự ràng buộc hoặc ảnh hưởng của tinh tú, tự mình là loại trừ mọi ảnh hưởng và chi phối từ lực của mặt trăng, tự mình là loại trừ mọi ảnh hưởng và chi phối từ lực của mặt trời. Tự mình là dấu chân Như Lai vượt hơn bốn Thánh Quả, tự mình là điều kỳ diệu, tự mình là hoàn toàn bình thường, tự mình là toàn giác, tự mình là thức tỉnh cái chưa tỉnh giác, tự mình là bậc giác ngộ toàn giác ở tại đây, tự mình là bậc giác ngộ toàn giác ở tại kia, tự mình là vượt thoát, tự mình là bờ bên kia, alaha dalaha, tự mình là trắng sáng thuần khiết, hoàn toàn thanh tịnh, tận cùng nơi đó, tự mình là cát tường, tự mình là lớp vỏ bao bọc toàn diện, tự mình an lập nơi đã tiến hoá. Tự mình là sự tiêu diệt, tự mình là sự huỷ diệt mọi trói buộc, tự mình cắt bỏ mọi dây trói phiền não. Các lỗ hổng, chỗ rạn nứt, cái ảo giác nơi chính mình, cái quỷ hại, bị quấy nhiễu, tự mình là tối thượng, tự mình là vượt qua ma vương, tự mình là đánh bại tất cả, tự mình là gánh chịu sức nặng, tự mình là phá tan sự sợ hãi rung động dữ dội, tự mình là phẫn nộ tiêu trừ mọi quân ma, tự mình là chỗ quy y, tự mình là bậc xé toạc chẻ đôi, phá vỡ huyễn ảo, tự mình là sự vận hành, tự mình là bậc phá tan chướng ngại. Tự mình là trân quý, tự mình là tối thượng, tự mình là phạm hạnh thanh tịnh, tự mình là thiên chúa indra, tự mình là trí tuệ kiên cố, tự mình là chúa tể lớn hoàn toàn tự chủ maheśvara, tự mình là trí tuệ thiện của chính mình, tự mình là đầy đủ sức mạnh, tự mình là âm tiết thiêng liêng nhất, tự mình là chuyển hoá hoàn toàn mê lầm, tự mình là vận hành. Dù trong giai cấp hạ tiện, kẻ ô uế caṇḍāla, tự mình là bậc anh hùng, tự mình là tất cả thần linh, tự mình là thần linh không bị chướng ngại, tự mình là người được dẫn đến, tự mình là bậc trí giả, tự mình là bậc triệu hồi pháp lực. Tự mình là sự trì tụng của chính mình, tự mình là nhạc thiên giới gandhara. Ngay tại đây, trong hình tướng biển lớn dao động makara, tự mình là trừ mọi sợ hãi, tự mình là đạt được thành tựu, tự mình là tuệ mati quán sát thấy rõ.
Đây là cảnh giới hiển lộ sự chứng nhập của 10 lực, nơi cửa ngõ nhập vào sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, được gia hộ bởi đức Phật.
Ngay khi đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai vừa thuật lại Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này, tức thì, 3000 đại thiên thế giới này khởi lên sáu loại biến động: rung động, rung động mạnh, rung động dữ dội, chuyển động, chuyển động rõ rệt, chuyển động toàn diện, dậy sóng, dậy sóng mạnh, dậy sóng toàn diện, vang động, vang động mạnh, vang động khắp nơi, dâng lên, cúi xuống, và đồng thời dâng lên cúi xuống.
Và ánh sáng hiện ra, khiến cho trong mười phương, vô số thế giới nhiều như số cát sông Hằng, vượt quá cả số lượng cát có khả năng tính đếm, trở nên rõ ràng với ánh sáng rực rỡ. Ngay khi ấy, núi Sumeru, các vòng xoáy thiên hà cakravāḍa và các vòng xoáy thiên hà lớn mahācakravāḍa không còn hiện ra trong tầm mắt.
Các thế giới trong mười phương, vượt quá số lượng cát trong sông Hằng, dường như thu nhỏ vào lòng bàn tay, và có thể thấy rõ.
Và các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát, đang trú trong các thế giới ở mười phương, vượt qua số lượng cát trong sông Hằng, là những vị đã đạt được chánh định samādhi, sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, và Nhẫn kṣānti. Những vị ấy, bằng sức mạnh của Như Lai, ẩn thân trong các cõi Phật của chính mình, rồi đến thế giới Ta-bà này, và đến gần đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai tại núi Linh Thứu.
Sau khi đến gần, họ cúi đầu đảnh lễ bàn chân của đức Thế Tôn, dùng nhiều cách và các sự biến hóa kỳ diệu khác nhau của Bồ Tát để cúng dường đức Thế Tôn, rồi an tọa ngay tại đó để lắng nghe Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri.
Các hàng trời, rồng, dạ-xoa, a-tu-la, các loài quỷ kumbhāṇḍa có thân hình to lớn, phần hạ bộ phình to bất thường như chum lớn, có thể biến hình hoặc phô bày hình tướng quái dị để hù dọa người với tính khí tàn bạo, dâm dục, thích nhiễu loạn chúng sinh, có thể gây bệnh tình dục, bệnh thần kinh, rối loạn sinh lý hoặc khiến người ta mất trí, nói sảng, loạn động, thường cư ngụ ở các nghĩa địa, rừng sâu, gò mả, hoặc chỗ dơ bẩn, có tính âm khí, có thể ám nhập thân người, các loài quỷ piśāca mặt đen hoặc tím, tóc rối, mắt đỏ ngầu, răng nanh dài, hình thù ghê rợn, có khả năng ẩn hình hoặc nhập xác người, với tính khí ácc độc, đói khát, ăn thịt người, đặc biệt là xác chết chưa chôn, hút tinh khí, làm loạn tâm trí con người, thường sống ở nghĩa địa, rừng hoang, nơi u ám, nhà hoang, hoặc nơi từng có người chết oan, có thể gây mê loạn tâm trí, làm người ta rối loạn trí nhớ, nói sảng, mất ngủ, hoảng loạn, và gây bệnh hiểm nghèo, đông nhiều như cát trong sông Hằng, đã đến núi Linh Thứu, nơi có đức Thế Tôn.
Sau khi đến nơi, họ cúi đầu đảnh lễ bàn chân đức Thế Tôn, rồi ngồi sang một bên để lắng nghe bài giảng pháp nói về Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri.
Và những vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát tụ hội tại đó, tất cả đều thấy cõi Phật tên là Liên Hoa, và thấy đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đang được vây quanh bởi đại chúng Bồ Tát.
Ngay sau khi đức Thế Tôn tuyên thuyết bài giảng pháp Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này, thì có 27 Hằng Hà Sa Bồ Tát, và Đại Bồ Tát, đã chứng đắc được sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này.
Những vị Bồ Tát ấy, sau khi chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, thấy được các đức Phật Thế Tôn đang trụ trong các thế giới ở mười phương, với số lượng nhiều hơn cát trong sông Hằng. Và họ cũng thấy rõ tất cả các trang nghiêm công đức của các cõi Phật. Họ đạt đến sự kỳ diệu chưa từng có, sau khi đã cúng dường chư Phật bằng sức mạnh chánh định samādhi và các sự biến hóa thần thông của Bồ Tát, rồi họ đứng yên trong chánh định.
Đức Thế Tôn liền nói với họ như sau:
Này các thiện nam tử, một vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát, khi tu tập pháp nhập vào Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này, sẽ chứng đắc 84.000 cửa vào sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, và chứng đắc 72.000 sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, và chứng đắc 60.000 cửa vào chánh định samādhi.
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy, sau khi chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này, sẽ chứng đắc đại từ và chứng đắc đại bi. Chỉ cần chứng đắc chánh định samādhi này, vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy liền giác ngộ ba 10 37 trợ đạo Giác ngộ, và chứng đắc Trí Toàn Tri. Và tại đây, là nơi dung chứa tất cả các pháp của chư Phật.
các đức Phật Thế Tôn, sau khi tự chứng đạt sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này, liền thuyết pháp cho chúng sinh, và các Ngài không nhập Niết-bàn quá sớm.
Hãy quán sát, này các thiện nam tử, do uy lực của Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này – mà có hiện tượng chấn động lớn của đại địa xuất hiện, và có ánh sáng lớn xuất hiện, nhờ ánh sáng ấy mà vô số cõi Phật vô biên vô tận đều trở nên sáng rỡ rõ ràng với ánh sáng rực rỡ siêu việt.
Với ánh sáng ấy, từ các cõi Phật vô biên vô tận, có vô lượng vô biên các vị Bồ Tát đã đến để nghe bài giảng pháp về Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này.
Và bất kỳ ai, trong thế giới Ta-bà này, thuộc vào vô số chư thiên cõi Dục giới, Sắc giới, rồng, dạ-xoa, a-tu-la, loài người hay phi nhân, nếu nghe được Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này, thì ngay khi nghe, họ liền trở thành bậc bất thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nếu ai chép lại, thì người đó không lìa xa việc thấy Phật, nghe pháp, thân cận Tăng, cho đến khi đạt được Vô Thượng Niết-bàn, trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh vô thượng tuyệt đối.
Nếu vị Bồ Tát nào tự đọc tụng Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này, thì sẽ tiêu trừ tất cả các nghiệp nặng không sót lại, và bằng sự chuyển sinh, sẽ bước vào tầng địa thứ nhất.
Nếu vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát nào, tu tập Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này, thì dù đã tạo ra và tích lũy năm nghiệp vô gián, những nghiệp ấy cũng đều được tiêu diệt, và bằng sự chuyển sinh, sẽ bước vào tầng địa thứ nhất.
Đối với ai không có các nghiệp vô gián, thì với thân sinh ấy, tất cả các nghiệp khác sẽ được tiêu trừ hoàn toàn, và bằng sự chuyển sinh, sẽ bước vào tầng địa thứ nhất.
Ngay cả ai không tu tập, không tự đọc tụng, nhưng trong khi đang nghe lại kết khăn pháp cho người thuyết pháp, thì các đức Phật Thế Tôn, đông nhiều như số cát sông Hằng, đang hiện tiền, đang tồn tại, đang giáo hóa, và đang trú ở các thế giới khác, sẽ đồng thanh tán thán người đó. Chính các đức Phật Thế Tôn ấy cũng sẽ thọ ký cho người ấy Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chẳng bao lâu, vị Bồ Tát ấy, do hồi hướng công đức của việc kết khăn pháp, sẽ được tấn phong làm Thái tử, và trở thành người chỉ còn một đời nữa là sẽ đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cũng vậy, bất kỳ ai dùng hương để cúng dường, thì người ấy chẳng bao lâu sẽ đạt được hương thơm của Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nếu ai cúng dường bằng hoa cho người thuyết pháp, thì người ấy sẽ đạt được các đóa hoa trí tuệ vô thượng. Nếu có chúng sinh tỉnh thức nào dâng cúng thức ăn, nước uống cho người thuyết pháp, thì người ấy sẽ đạt được thức ăn Như Lai vô thượng. Nếu có ai khoác y phục cho người thuyết pháp, sẽ đạt được màu da tướng hảo của Như Lai vô thượng. Và nếu có ai trang sức cho người thuyết pháp bằng châu báu, thì người ấy, chẳng bao lâu, cũng sẽ đạt được những viên ngọc quý của 37 pháp trợ đạo Tỉnh Thức.
Do vậy, này các thiện nam tử, Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này là pháp mang lợi ích rất lớn cho các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát.
Vì sao vậy?
Bởi vì trong pháp này toàn bộ Tạng Bồ Tát (bodhisattva-piṭakam) đã được thuyết giảng.
Và với Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này, vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy sẽ đạt được trí tuệ biện tài không ngăn ngại, và đạt được bốn pháp thù thắng khả ái.
Này các thiện nam tử, khi đức Thế Tôn Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác giảng nói Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này, cho vị chúng sinh tỉnh thức, là vị Đại Bồ Tát có tên là Ấn Hư Không, thì ngay khi ấy, đại địa liền chấn động, và ánh sáng vĩ đại hiện khởi trong thế gian. Hằng Hà Sa các cõi Phật trong mười phương, vượt ngoài khả năng tính đếm, đều trở nên sáng rỡ nhờ ánh sáng rực rỡ siêu việt. Cũng vậy, những vùng đất bằng phẳng như lòng bàn tay, và những nơi gồ ghề trên mặt đất đều hiện rõ.
Các vị Bồ Tát tụ hội tại đó, đều thấy được các đức Phật Thế Tôn trong Hằng Hà Sa các cõi Phật ở mười phương vượt ngoài khả năng tính đếm.
Cũng như vậy, từ mười phương, trong Hằng Hà Sa các cõi Phật, các vị Bồ Tát, đông nhiều vô lượng không thể tính đếm, đã đến thế giới Candanā, để lễ bái và phụng thờ đức Thế Tôn Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, và để nghe pháp về Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri.
Khi ấy, đức Thế Tôn Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, liền gọi các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát rằng:
Này các thiện nam tử, Ta biết rõ những vị Bồ Tát chỉ còn một đời nữa là thành tựu Toàn Giác, đã trải qua 10 tiểu kiếp này với tâm an tĩnh trong thiền định tịch diệt (nirodhām). Và sau đó, họ là những vị Bồ Tát còn lại trong 10 tiểu kiếp ấy, từ nơi vị Bồ Tát Ấn Hư Không này, họ đã lắng nghe và học Tạng Bồ Tát, và Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này.
Trong suốt 10 tiểu kiếp này, sau khi đã nghe pháp, các vị ấy phát khởi tín tâm nơi các đức Phật Thế Tôn đang an trụ, đang thuyết pháp và giáo hóa trong Hằng Hà Sa các cõi Phật ở mười phương, vượt ngoài khả năng tính đếm. Và trong Hằng Hà Sa số các cõi ấy, nhờ nhân duyên khởi tín tâm này, họ đã thành tựu căn lành vững chắc, và đã cúng dường đức Thế Tôn Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác bằng nhiều hình tướng thần biến khác nhau của Bồ Tát, và các vị ấy đã thưa với đức Thế Tôn ấy như sau:
Thưa đức Thế Tôn, sau khi trải qua 10 tiểu kiếp này, vị Bồ Tát Ấn Hư Không Đại Bồ Tát này có chuyển vận bánh xe chánh pháp chân chánh vô thượng chăng?
Đức Thế Tôn Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai nói:
Đúng như vậy, này các thiện nam tử, sau khi vượt qua 10 tiểu kiếp này, vị Bồ Tát Ấn Hư Không Đại Bồ Tát này, sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngay trong đêm ấy, sau khi vượt qua 10 tiểu kiếp, Ngài sẽ chuyển bánh xe chánh pháp chân chánh.
Trong suốt 10 tiểu kiếp này, vị Bồ Tát Ấn Hư Không ấy sẽ thuyết giảng Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này cho các vị Bồ Tát. Ở đó, bất kỳ vị Bồ Tát, hay Đại Bồ Tát nào, từ nơi Ngài nghe pháp, và sau khi nghe xong pháp ấy, vị ấy sẽ gieo trồng căn lành,
Và đúng lúc Bồ Tát Ấn Hư Không chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khi thành một đức Phật Toàn Giác, sẽ chuyển bánh xe chánh pháp, bánh xe tối thắng, và bánh xe bất thoái chuyển.
Sau khi đặt an trụ vô số hàng trăm tỷ tỷ tỷ Bồ Tát vào địa vị bất thoái chuyển, những vị Bồ Tát nào, trong 10 tiểu kiếp này, nghe pháp Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này do Ngài thuyết giảng, thì vào thời điểm ấy, sau khi nghe pháp sẽ trở thành những vị chỉ còn một đời nữa là thành Phật.
Còn những vị Bồ Tát nào chỉ nghe pháp này trong một kiếp, thì vào lúc ấy, sẽ bước vào các tầng địa, và sẽ trở thành bất thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngay trong thời điểm ấy, họ sẽ đạt được trọn vẹn sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này.
Sau khi nói như vậy, đức Thế Tôn Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác hiện bày nhiều loại thần biến cho các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát, và chỉ bày chánh định samādhi Nārāyaṇa cho vị Bồ Tát Ấn Hư Không. Ngài an trụ vào thân kim cang bất hoại, và thị hiện chánh định samādhi ánh sáng trang nghiêm (prabhāvyūha). Nhờ vào bánh xe chánh pháp đã được chuyển vận, trong 10 tiểu kiếp này, Ngài thuyết giảng Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri cho các vị Bồ Tát. Trong tất cả các cõi Phật, nhờ uy lực của chư Phật, Ngài được thấy với ánh sáng rực rỡ, nơi có đầy đủ các tướng tốt và phụ tướng đẹp. Ngài thị hiện chánh định samādhi Vòng Tròn Kim cang (vajra-maṇḍala). Nhờ chánh định samādhi ấy, trên tòa giác ngộ, Ngài chuyển vận viên mãn bánh xe chánh pháp, và thuyết pháp cho các vị Bồ Tát. Ngài thị hiện chánh định samādhi Bánh xe Trang nghiêm (cakra-mālaṃ). Nhờ chuyển bánh xe chánh pháp, Ngài đã an lập vô số hàng trăm tỷ tỷ tỷ chúng sinh vào địa vị bất thoái chuyển.
Khi biết rằng bánh xe chánh pháp đã được chuyển vận, vị Bồ Tát Ấn Hư Không Đại Bồ Tát, cùng với vô số hội chúng Bồ Tát, đã cúng dường đức Thế Tôn ấy, và an trú trong các lầu các của chính mình.
Và đức Thế Tôn Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, vào chính đêm đó, nhập diệt trong cảnh giới Niết-bàn không còn dư y (anupadhiśeṣe nirvāṇa-dhātau). Các vị Bồ Tát ấy, sau khi đêm đó trôi qua, đã cúng dường xá-lợi của đức Thế Tôn, rồi trở về an trú trong lầu các riêng của mình. Còn những vị Bồ Tát khác thì đã trở về các cõi Phật của mình.
Còn những vị Bồ Tát ở đó chỉ còn một đời nữa là thành Phật, thì nhờ chánh định samādhi tịch diệt (nirodha-samādhi), họ vượt qua 10 tiểu kiếp ấy.
Bồ Tát Ấn Hư Không Đại Bồ Tát bắt đầu thuyết pháp cho các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát. Và trong suốt 10 tiểu kiếp ấy, Ngài đã gieo trồng căn lành cho các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy. Và chính Ngài, trong đêm hôm nay, vừa mới chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do vậy, ngày hôm nay, bánh xe chánh pháp đã được chuyển vận, các thần biến vĩ đại đã được thị hiện, và vô số hàng trăm tỷ tỷ tỷ chúng sinh đã được an lập vào địa vị bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ngay trong lúc này, khi pháp Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này đang được thuyết giảng, có 800.000 tỷ tỷ Bồ Tát đã chứng đắc nhẫn đối với các pháp không sinh khởi. Và 920 triệu chúng sinh đã được an lập vào địa vị bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và, 7 triệu 200 ngàn tỷ Bồ Tát, đã được chứng đắc Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này. Và tâm nguyện Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã được khởi phát nơi vô số Hằng Hà Sa chư thiên và loài người.
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Ngọc Quý Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Đại Bồ Tát thưa với đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát nhờ vào những pháp nào mà có thể chứng đắc được sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này?
Đức Thế Tôn nói rằng:
Này thiện nam tử, một vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát, khi đầy đủ bốn pháp, thì sẽ chứng đắc được sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này.
Bốn pháp ấy là gì?
Cách an trụ trong Bốn Dòng Thánh
Đó là: vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy an trụ trong bốn dòng Thánh.
Thế nào là bốn dòng Thánh ấy?
1. Y Phục (Cīvara)
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy bằng lòng với bất kỳ y phục nào có được.
Người hài lòng với bất kỳ y phục nào ấy, là bậc khéo giảng pháp. Người ấy không rơi vào sự tìm cầu không chính đáng vì y phục. Người ấy khi không có y phục, không buồn khổ; khi có được y phục, không đắm nhiễm, biết sử dụng đúng mức. Người ấy không chấp trước, không tham lam, không ràng buộc, không mê lầm, không sa vào tập khí cố định, không rơi vào tâm phán đoán sai lạc. Quán thấy sự nguy hiểm nơi y phục, người ấy sử dụng y phục với tâm xả ly vì lợi ích của chúng sinh.
Đó là dòng Thánh thứ nhất, nơi vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy an trụ.
2. Thức ăn được đặt vào bát (piṇḍapātaṃ)
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy bằng lòng với bất kỳ thức ăn nào có được.
Người hài lòng với bất kỳ thức ăn nào ấy, là bậc khéo giảng pháp. Người ấy không rơi vào sự tìm cầu không chính đáng vì thức ăn. Người ấy khi không có thức ăn, không buồn khổ; khi có được thức ăn, không đắm nhiễm, biết sử dụng đúng mức. Người ấy không chấp trước, không tham lam, không ràng buộc, không mê lầm, không sa vào tập khí cố định, không rơi vào tâm phán đoán sai lạc. Quán thấy sự nguy hiểm nơi thức ăn, người ấy sử dụng thức ăn với tâm xả ly vì lợi ích của chúng sinh.
Đó là dòng Thánh thứ hai, nơi vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy an trụ.
3. Chỗ nằm và chỗ ngồi (śayyāsanaṃ)
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy bằng lòng với bất kỳ chỗ nằm và chỗ ngồi nào có được.
Người hài lòng với bất kỳ chỗ nằm và chỗ ngồi nào ấy, là bậc khéo giảng pháp. Người ấy không rơi vào sự tìm cầu không chính đáng vì chỗ nằm và chỗ ngồi. Người ấy khi không có chỗ nằm và chỗ ngồi, không buồn khổ; khi có được chỗ nằm và chỗ ngồi, không đắm nhiễm, biết sử dụng đúng mức. Người ấy không chấp trước, không tham lam, không ràng buộc, không mê lầm, không sa vào tập khí cố định, không rơi vào tâm phán đoán sai lạc. Quán thấy sự nguy hiểm nơi chỗ nằm và chỗ ngồi, người ấy sử dụng chỗ nằm và chỗ ngồi với tâm xả ly vì lợi ích của chúng sinh.
Đó là dòng Thánh thứ ba, nơi vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy an trụ.
4. Thuốc Men Chữa Bệnh (Bhaiṣajya)
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy bằng lòng với bất kỳ thuốc men chữa bệnh nào có được.
Người hài lòng với bất kỳ thuốc men chữa bệnh nào ấy, là bậc khéo giảng pháp. Người ấy không rơi vào sự tìm cầu không chính đáng vì thuốc men chữa bệnh. Người ấy khi không có thuốc men chữa bệnh, không buồn khổ; khi có được thuốc men chữa bệnh, không đắm nhiễm, biết sử dụng đúng mức. Người ấy không chấp trước, không tham lam, không ràng buộc, không mê lầm, không sa vào tập khí cố định, không rơi vào tâm phán đoán sai lạc. Quán thấy sự nguy hiểm nơi thuốc men chữa bệnh, người ấy sử dụng thuốc men chữa bệnh với tâm xả ly vì lợi ích của chúng sinh.
Đó là dòng Thánh thứ tư, nơi vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy an trụ.
Vị ấy an trụ trong bốn dòng Thánh này. Khi đầy đủ bốn pháp này, vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy sẽ chứng đắc và tu tập thành công sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này.
Cách an trụ trong Năm Pháp
Lại nữa, khi đầy đủ năm pháp, vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy sẽ chứng đắc Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này.
Năm pháp ấy là gì?
1. Giữ Giới (Śīla)
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy tự thân hành trì đầy đủ giới đức, nghiêm trì các học giới biệt giải thoát prātimokṣa, thành tựu oai nghi và hành xứ, thấy rõ lỗi lầm dù rất nhỏ, tiếp nhận và học tập các học pháp.
Khi thấy người khác thiếu giới đức, vị ấy khéo dẫn dắt, điều phục, an trú và an lập họ vào giới hạnh viên mãn (śīla-saṃpatti).
Đó là pháp thứ nhất mà vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy đầy đủ.
2. Chánh Kiến (Sammā-diṭṭhi)
Lại nữa, vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy giúp các chúng sinh đang rơi vào tà kiến lìa bỏ tà kiến, rồi hướng dẫn họ phát khởi, điều phục, an trú và an lập vào chánh kiến (samyag-dṛṣṭi).
Đó là pháp thứ hai mà vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy đầy đủ.
3. Lối Sống Chơn Chánh (Sammācāra)
Lại nữa, vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy hướng dẫn các chúng sinh đang rơi vào lối sống không chơn chánh cách phát khởi, điều phục, an trú, và an lập vào lối sống và việc làm chơn chánh (samyag-ācāra).
Đó là pháp thứ ba mà vị Bồ Tát ấy đầy đủ.
4. Nguyện Chơn Chánh (Sammā-āśaya)
Lại nữa, đối với các chúng sinh có tâm nguyện sai lệch, vị Bồ Tát ấy hướng dẫn họ phát khởi, điều phục, an trú, và an lập vào chánh nguyện thanh tịnh (āśaya-saṃpatti).
Đó là pháp thứ tư mà vị Bồ Tát ấy đầy đủ.
5. Hướng Dẫn Chúng Sinh An Lập Vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (sattvān anuttarāyāṃ samyaksaṃbodhau samādāpayati)
Lại nữa, vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy, đối với các chúng sinh đang khởi hành theo cỗ xe Thanh Văn thừa và Độc Giác thừa, liền hướng dẫn, điều phục, an trú, và an lập họ vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đó là pháp thứ năm mà vị Bồ Tát ấy đầy đủ.
Cách an trụ trong sáu pháp
Khi đầy đủ năm pháp này, vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy sẽ chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này.
Lại nữa, khi đầy đủ sáu pháp, một vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát sẽ chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này.
Sáu pháp ấy là gì?
1. Đa Văn - Học Rộng Nghe Nhiều (Bahuśruta)
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy, tự mình là người đa văn, học rộng nghe nhiều, là người ghi nhớ chánh pháp đã nghe, tích tụ giáo pháp. Các pháp ấy của vị ấy là thiện lành ở phần đầu, thiện lành ở phần giữa, thiện lành ở phần kết thúc, tự mình là ý nghĩa chân thật, ngôn từ rõ ràng, là phạm hạnh, với thanh tịnh cao quý tinh khiết (brahmacaryaṃ) hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trong sáng; được các bậc Thánh ca ngợi.
Những pháp như vậy được vị ấy học nhiều, nghe nhiều, ghi nhớ, thuộc lòng, tư duy bằng tâm, và quán sát bằng trí tuệ. Vị đa văn học rộng nghe nhiều như vậy còn giúp cho những chúng sinh chưa từng nghe pháp phát khởi, điều phục, an trú và an lập vào sự đa văn học rộng nghe nhiều.
Đó là pháp thứ nhất mà vị Bồ Tát ấy đầy đủ.
2. Không Ganh Tỵ (Anīrṣyā)
Lại nữa, vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy không ganh tỵ, và không bỏn sẻn.
Vị ấy giúp các chúng sinh bị chi phối bởi ganh tỵ và bỏn sẻn phát khởi tâm xả và không ganh tỵ, cho đến khi họ được an lập.
Đó là pháp thứ hai mà vị Bồ Tát ấy đầy đủ.
3. Không Tổn Hại (Ahiṃsā)
Lại nữa, vị Bồ Tát ấy là người không gây tổn hại đến chúng sinh, là người ban cho sự không sợ hãi. Ngài giải thoát những chúng sinh bị quấy nhiễu bởi các tai họa khác nhau.
Đó là pháp thứ ba mà vị Bồ Tát ấy đầy đủ.
4. Không Giả Dối, Không Lừa Gạt, Không Dùng Mưu Mẹo (akuhakaḥ, aśaṭhaḥ, amāyāvī)
Lại nữa, vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy là người không giả dối, không dối trá, không gian trá, không lừa dối, không lừa đảo, không gian xảo, không gian manh, không quanh co, không mưu mô, không mưu mẹo, không dùng tà thuật, không mê hoặc, không giả trá, không dùng thủ đoạn, sống đơn với lời nói, ý nghĩ và việc làm đều chân thật.
Vị ấy giúp các chúng sinh bị chi phối bởi giả dối, dối trá, gian trá, lừa dối, lừa đảo, gian xảo, mưu mô, quanh co, mưu mẹo, tà thuật, mê hoặc, giả trá, thủ đoạn, phát khởi tâm chơn thật, cho đến khi họ được an lập, có sống đơn với lời nói, ý nghĩ và việc làm đều chân thật.
Đó là pháp thứ tư mà vị Bồ Tát ấy đầy đủ.
5. Không Ba Hoa, Không Lắm Lời (Alapakaḥ)
Lại nữa, vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy là người không ba hoa, không khoe khoang, không lắm lời, không nói lời vô ích, không xen vào chuyện không phải của mình, không lạm dụng lời nói, và không nói những điều sai thời, sai chỗ.
Vị ấy luôn biết giữ gìn khẩu nghiệp thanh tịnh, chỉ nói những lời đúng thời, đúng pháp, đúng sự thật, với tâm ý từ bi và trí tuệ. Vị ấy dùng lời nói như một phương tiện thiện xảo để lợi ích cho chúng sinh, không để rơi vào lời thị phi, tạp thoại hay sự huyên náo vô nghĩa.
Vị ấy giúp các chúng sinh bị chi phối bởi thói ba hoa, khoe khoang, và lắm lời, bị trôi lăn trong ngữ nghiệp bất thiện, đắm chìm trong lời nói sai quấy, phát khởi tâm yên lặng, tâm khiêm cung, và tâm tiết chế ngôn ngữ, cho đến khi họ được an lập trong chánh ngữ (samyagvāc) – lời nói chân thật, êm dịu, có ích và đúng lúc.
Đó là pháp thứ năm mà vị Bồ Tát ấy đầy đủ.
6. Thường Xuyên An Trụ Trong Tánh Rỗng Không (śūnyatā)
Lại nữa, vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy là người thường xuyên an trụ trong Tánh Rỗng Không (śūnyatā), quán sát rõ ràng bản thể rỗng không của tất cả các pháp, hiểu rằng các pháp vốn không có tự tánh (niḥsvabhāva), không khởi từ tự thân, không từ người khác, không từ cộng sinh, cũng không từ vô nhân mà sinh.
Vị ấy khéo an trụ trong tuệ Tỉnh Thức mati không phân biệt, không chấp trước vào ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, và không dính mắc nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Dù làm mọi việc vì lợi ích chúng sinh nhưng tâm không nhiễm trước vào tướng.
Vị ấy không rơi vào đoạn kiến hay thường kiến, không kẹt trong nhị nguyên sai biệt, cũng không chấp thủ nơi các pháp do tạo tác làm thành hay không do tạo tác làm thành. Vị ấy tu hành các ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia với tâm không chấp trước, vì đã thấy rõ bản chất rỗng không của các hành sinh diệt.
Vị ấy giúp các chúng sinh bị chi phối bởi tà kiến về ngã, về pháp, bởi sự chấp thủ sai lầm vào tự thể, tự tánh, bởi sự cố chấp vào thực có và chẳng phải thực có, phát khởi tuệ Tỉnh Thức mati vô phân biệt, hiểu rõ Tánh Rỗng Không của tất cả các pháp, thành tựu chánh kiến (samyagdṛṣṭi), và an lập trong Trí Toàn Tri (sarvajñatājñāna).
Đó là pháp thứ sáu mà vị Bồ Tát ấy đầy đủ.
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy, khi đầy đủ sáu pháp này, sẽ chứng đắc Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này.
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy, khi đầy đủ các pháp như thế, nên hành trì pháp quán niệm trên thân (kāyagatā smṛti) bằng cách an trụ trong Tánh Rỗng Không nơi chính mình (śūnyatā-vihāra), ngồi theo hình thức ngũ luân với tư thế kiết già, giữ thân thẳng và đặt chánh niệm trước mặt (pañcamaṇḍalena) thực hành chúng ba lần mỗi ngày vào ban ngày, và suốt bảy năm, để xả bỏ tất cả các thần chú bằng tiếng Dramiḍa (drāmiḍa-mantrapadā), dù đã nắm bắt sơ lược hay chi tiết.
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy, sau khi liên tục tưởng nhớ các đức Phật Thế Tôn đang hiện diện, trụ trì, đang chuyển pháp luân ở khắp mười phương, nhờ công đức quán tưởng Phật (buddhānusmṛti), sau bảy năm, sẽ chứng đắc Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri.
Nhờ chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này, vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy đạt được con mắt tuệ giác bậc thánh (āryaṃ prajñācakṣuḥ) theo đúng tướng trạng như vậy.
Bằng con mắt tuệ giác ấy, vị ấy thấy rõ tất cả chư Phật đang hiện diện, đang trụ trì, đang chuyển vận, đang thị hiện đại thần thông trong Hằng Hà Sa các cõi Phật ở khắp mười phương. Khi thấy nụ cười và ánh hiện của các đức Phật Thế Tôn ấy, vị Bồ Tát ấy liền chứng đắc 84.000 cửa sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, và chứng đắc 72.000 cửa chánh định samādhi, và 60.000 cửa pháp.
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy, khi an trụ trong Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri, sẽ chứng đắc đại từ và đại bi.
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát nào chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này, nếu đã tạo năm nghiệp vô gián, thì những nghiệp ấy sẽ tiêu trừ trong một đời sau. Đến đời thứ ba, các nghiệp ấy sẽ hoàn toàn tiêu diệt, và vị ấy sẽ đạt đến tầng địa thứ 10.
Nếu vị Bồ Tát ấy không tạo các nghiệp vô gián, thì tất cả các chướng nghiệp còn lại cũng sẽ tiêu trừ. Qua các đời chuyển sinh, vị ấy vượt qua 10 tầng địa, không bao lâu, ngay trong hiện tại, sẽ chứng đắc 37 pháp trợ đạo Giác ngộ, và chứng đắc Trí Toàn Tri.
Như vậy, này thiện nam tử, Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này đem lại nhiều lợi ích rất lớn cho các Bồ Tát, và Đại Bồ Tát.
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy, thường xuyên và liên tục, khi thấy được nụ cười và ánh hiện của các đức Phật Thế Tôn, sẽ được đầy đủ sức mạnh thần thông hiển hiện như thế, và chứng được các thần biến.
Trong các thế giới nhiều như số cát sông Hằng, sau khi cúng dường các đức Phật Thế Tôn cũng nhiều như cát sông Hằng, nghe chánh pháp của các đức Phật ấy, chứng đắc nhiều loại chánh định samādhi, nhẫn và sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, các vị ấy sẽ đến được cõi Phật thế giới Liên Hoa này.
Như vậy, này thiện nam tử, Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri của các Bồ Tát, và Đại Bồ Tát dẫn đến sự tiêu trừ chướng ngại của nghiệp và tăng trưởng các thiện căn.
Và này thiện nam tử, những chúng sinh nào sẽ được nghe danh hiệu của Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri, và tên của đức Thế Tôn Mặt Trăng Tối Thượng Như Lai, thì tất cả các chướng nghiệp của họ sẽ tiêu trừ, và họ sẽ trở thành những người quyết định hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, có nhiều vị Bồ Tát trong pháp hội nói như sau:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nơi các đức Phật Thế Tôn trong quá khứ, vào thời kỳ các Ngài còn đang hiện hữu, đang trụ trì và chuyển hóa trong các thế giới nhiều như số cát sông Hằng, chúng con đã từng được nghe và chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này.
Lại có những vị khác nói như sau: Chúng con đã nghe và chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này từ nơi 2 Hằng Hà Sa các đức Phật.
Những vị khác nói: Chúng con đã nghe và chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này từ nơi 3 Hằng Hà Sa các đức Phật.
Lại có vị nói: Chúng con đã nghe và chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này từ nơi 4 Hằng Hà Sa các đức Phật.
Có vị nói: Chúng con đã nghe và chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này từ nơi 5 Hằng Hà Sa các đức Phật.
Có vị nói: Chúng con đã nghe và chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này từ nơi 6 Hằng Hà Sa các đức Phật.
Có vị nói: Chúng con đã nghe và chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này từ nơi 7 Hằng Hà Sa các đức Phật.
Có vị nói: Chúng con đã nghe và chứng đắc sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này từ nơi 8 Hằng Hà Sa các đức Phật.
Lại có những vị khác nói như sau: “Chúng con, từ nơi 9 Hằng Hà Sa các đức Phật Chánh Đẳng Giác, trong quá khứ, khi các Ngài còn đang hiện hữu, đang trụ trì, và giáo hóa, đã từng được nghe Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri, và chứng đắc trọn vẹn mọi mặt.
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc Đại Bồ Tát, liền nói như sau:
Con, sau khi vượt qua 10 Hằng Hà Sa số kiếp, đã đến một đại kiếp tên là santāraṇa – Vượt Qua Toàn Diện. Khi ấy, cõi Phật này được gọi tên là sarvālaṅkāravibhūṣita – Trang Nghiêm Bằng Mọi Loại Trang Sức.
Có một đức Phật hiệu là Sālendrarāja – Vị Vua Tối Thượng Của Dòng Dõi Śāla Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Ngài được vây quanh bởi một đại chúng gồm vô lượng hàng trăm tỷ tỷ tỷ Tỳ-kheo, và bởi vô biên Hằng Hà Sa số Bồ Tát. Chính Ngài đã thuyết giảng Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này. Ở trước đức Phật ấy, con đã được nghe sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī này, và sau khi tu tập viên mãn, con đã chứng đắc.
Cũng như vậy, trong vô lượng vô biên a-sam-khê kiếp, nơi các đức Phật Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, khi các Ngài đang hiện hữu, đang trụ trì và giáo hóa, con đã cúng dường các đức Phật Thế Tôn ấy bằng những biến hóa thần thông không thể đếm hết của Bồ Tát. Nơi từng mỗi một đức Phật, con đã gieo trồng vô lượng vô biên, không thể sánh được các căn lành. Con đã tích lũy một kho tàng công đức, và nhờ căn lành ấy, con đã được thọ ký bởi hàng ngàn đức Phật.
Quan sát thời cơ, con đã chủ động luân hồi lâu dài trong vòng sinh tử, với đối tượng nguyện lực làm động cơ chính. Vì lý do ấy, khi con còn ở trong luân hồi sinh tử trước đây, con vẫn chưa thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nay, con đã được đức Thế Tôn tấn phong vào địa vị Thái tử của Pháp vương, và vương miện Giải Thoát đã được đặt nơi đỉnh đầu tuệ giác của con (prajñā-śirasi) để hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói với Bồ Tát Di Lặc rằng:
Đúng như vậy, này Di Lặc, ông chính là người đã từng chứng đắc Cửa vào Sức Mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Trí Toàn Tri này – từ nơi đức Thế Tôn Vị Vua Tối Thượng Của Dòng Dõi Śāla Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.
Ông, này Di Lặc, đang cầu nguyện và sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác sau khi vượt qua 10 kiếp.
Cũng như vậy, vì ông, này Di Lặc, không có đầy đủ ý nguyện, nên không đủ sức để mau chóng nhập vào cảnh giới Niết-bàn không còn dư y bằng trí tuệ Vô Thượng. Và việc ông, này Di Lặc, đã chủ động lưu chuyển lâu dài trong vòng sinh tử, thì tất cả điều đó đều do sức mạnh của bản nguyện và vì quan sát thời cơ thích hợp.
Do vậy, này Di Lặc, giờ đây, ông đã được tấn phong vào địa vị Thái tử của Pháp vương tiếp theo sau Ta, sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và trong quá khứ, ông cũng đã được thọ nhận địa vị ấy từ nơi các đức Như Lai trước kia.
Khi ấy, đức Thế Tôn liền nhìn khắp toàn thể đại chúng, quán sát tất cả hội chúng gồm: hội chúng Bồ Tát, hội chúng Tỳ-kheo, hội chúng Tỳ-kheo-ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, hội chúng các hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, La-sát, Càn-thát-bà, người và phi nhân.
Ngay trong lúc ấy, Ngài liền tuyên thuyết những câu thần chú như sau:
Thần chú làm chứng nhập tương ứng với Giáo Pháp Duyên Khởi
dāntabhūmiḥ damathabhūmiḥ smṛtibhūmiḥ prajñābhūmirvaiśāradyabhūmiḥ pratisaṃvidbhūmiranutkṣepabhūmiḥ samatāparikṣayopekṣabhūmirjātikṣayabhūmirmanuja vinmujaḥ malanmujaḥ visāgraḥ daśāvate veśataḥ teraṇa vesalagra śamuśavataḥ vimati vimati yopahira regamata vasisakrama iticāravate mekhemudra daharavate prajñākṣābubu dahakramitā sadoṣavantaḥ elaya tilaya ahusuṭā amundhamaṃ arthavati muruvati tehīnadvivā akaneti bakanate samake visābhaṭe iṭe iṭabale atra tatra kuruṣaṃ laruṣaṃ latatha katha sarvantaḥ sarvatarvaḥ aniruddhaḥ dihakhaṭambiphala bahuphala śataphala śīṣṭavate.
Tự mình là tầng địa thuần hoá, tự mình là tầng địa chế ngự nội tâm, tự mình là tầng địa của chánh niệm, tự mình là tầng địa của tuệ giác prajñā, tự mình là tầng địa biện tài vô ngại, tự mình là tầng địa trí vô ngại, tự mình là tầng địa không dao động, không loạn động, tự mình là tầng địa bình đẳng, đoạn trừ và xả ly, tự mình là tầng địa đoạn tận tái sinh, tự mình là giải thoát khỏi toàn bộ trói buộc của con người, tự mình là thoát khỏi cấu uế, tự mình là bậc tối thắng đối trị độc tố, tự mình là 10 hoá thân, tự mình là không bị hình tướng ngăn trở, tự mình là tối thượng yên tĩnh, tự mình là tịch tĩnh an nhiên, tự mình là tuệ mati vi diệu, tự mình là tuệ mati thanh tịnh, tự mình là đưa đến sự hợp nhất của chính mình khỏi các tư tưởng dao động, ý hướng lạc đường, tự mình là con đường lối sống cao cả hiền triết Vasiṣṭha, tự mình là đi đúng con đường chân chánh, tự mình là dấu ấn mây lớn, tự mình là bản tánh vi tế, tự mình là con mắt tuệ giác, tự mình là đốt sạch phiền não, những gì còn mang lỗi lầm qua tu tập tuần tự, tự mình là làm rung chuyển đến tận từng hạt hạ lượng tử, tự mình không thể ngăn ngại, tự mình là không bị mê lầm, không bị che phủ, tự mình là mang ý nghĩa cao quý, tự mình là mang uy lực rộng khắp, tự mình là tuệ mati khi ba cặp đối tượng gồm tuệ giác, trí tuệ và cái thấy thẳng hàng hợp nhất với chính mình, tự mình là không bị dẫn dắt, không thuộc về thế giới đối đãi, tự mình là sự khuất phục của vô minh, tự mình là bình đẳng, tự mình là chủ thể phá tan sự phân biệt, tự mình là triệu thỉnh nơi chính mình, ở nơi đây, ở nơi kia, và khắp mọi nơi, hãy làm đi, hãy vận hành, rung động rất sâu, tự mình rung chuyển, tự mình là lời dạy, tự mình là trong tâm của tất cả khắp mọi nơi, tự mình là không bị cản trở, tự mình là kết quả của việc phá tan ngã chấp, tự mình là nhiều quả thiện, tự mình là trăm quả thành tựu, tự mình là bậc hiền trí có giới đức.
Quả thật, đối với chư Thiên, đức Thế Tôn đã hiển lộ các cảnh giới chứng nhập tương ưng với giáo pháp Duyên khởi. Khi những pháp ấy đang được hiển lộ, thì đã có 6 triệu tỷ chư Thiên đạt được sự thấy rõ chân lý.
Thần chú làm Chư Thiên khởi lên tâm hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
tatphalam agraphalaṃ lalaha alaha nilaṃhare vacatakhyā idaṃphalaṃ niyāmaphalaṃ namudaya vibhūkha prajñācakra sunirvṛticakra jñānīcakra.
Tự mình là quả, tự mình là quả tối thượng, lalaha alaha, tự mình là sức mạnh tịnh trừ xanh biếc, tự mình là sự hiển bày giáo pháp, tự mình là quả của hiện tại này, tự mình là quả của pháp tắc tu hành, tự mình là cội nguồn của sự hiển hiện, tự mình là phước lực tối thắng, tự mình là bánh xe tuệ giác, tự mình là bánh xe giải thoát tịch diệt tốt đẹp, tự mình là bánh xe trí tuệ.
Nhờ những cảnh giới chứng nhập ấy, 100.000 chư Thiên đã khởi lên tâm hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngay nơi ấy, họ đã an trụ vào địa vị Không còn thoái chuyển.
Thần chú làm Long Thần khởi lên tâm hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
paśya momate anumato akumato akumatī chīdratrake mantrasthā deśabala vipravastha iśasthita atimati tīkṣṇamati āloko sterituṣṇa.
Tự mình là quan sát tâm mê muội, tâm vọng tưởng, tự mình là tuệ mati thấu suốt từng chi tiết nhỏ nhất của tâm mê muội, tâm vọng tưởng ấy, tự mình là tuệ mati chánh trực, trám lại tất cả lỗ hổng vết nứt, tự mình là trụ thần chú, tự mình là cảnh giới sức mạnh, khi bị lưu lạc, chìm trong tình trạng trôi nổi, tự mình là chủ thể an trụ, tự mình là tuệ mati siêu việt, tự mình là tuệ mati sắc bén, tự mình là ánh sáng, tự mình là vững chắc và lặng yên.
Nhờ những cảnh giới chứng nhập này, 64.000 Long thần đã khởi phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngay tại nơi ấy, họ đã được thành tựu địa vị Không còn thoái chuyển.
Thần chú làm các Thần Dạ-xoa khởi lên tâm hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
aprabhā samadanā ahadyo bhagavadyo karaṇyākṣa siddhamati samantakṣau alabale piṭakaro mahābale ojadaro dharaṇe migalekṣe udākṣa kudākṣa kukākṣa viroyo virūpamukha akṣihasta saṃkṣibala asurovina asuropramardane.
Nơi nào không có ánh sáng, bóng tối vô minh, tự mình là bình đẳng, không thể bị cướp đoạt, không thể bị đoạt mất, tự mình là bậc Thế Tôn, tự mình là sức mạnh thực thi thấy suốt, tự mình là tuệ mati viên mãn, tự mình là đôi mắt thấy mọi nơi, tự mình là mạnh mẽ, không yếu ớt, tự mình là giữ gìn trọn vẹn ba Tạng Kinh Luật Luận, tự mình là sức mạnh vĩ đại, tự mình là năng lượng sinh lực, có sức sống dồi dào, tự mình là sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī. Khi gặp các ảo ảnh như loài nai thấy nắng dợn là nước, tự mình là cái nhìn siêu việt vượt trên tất cả, khi có cái nhìn xấu ác, ánh mắt hiểm ác, bị kẻ đối nghịch, chúng nghịch hại, có gương mặt dị hình, mặt mũi đáng sợ, có mắt mang nơi tay, tay mang nơi mắt, tự mình là diệt trừ tất cả, tự mình là diệt trừ a-tu-la, tự mình là phá huỷ hoàn toàn các a-tu-la.
Nhờ những cảnh giới chứng nhập này, 120 triệu Dạ-xoa đã khởi sinh tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngay tại nơi ấy, họ đã được thành tựu địa vị Không còn thoái chuyển.
Thần chú làm A-tu-la khởi lên tâm hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
arthe pilile tinithe saṃtīrthe katitene nakeme nanamaste ubherabhe mudame madame matime saniha śūre dhāraṇīya sendra sadeva sanāga sayakṣāsuradevā nāga nirukti parivāra niruktalāni smṛti prajñā parivāramati pratilābhī gatidhṛtiparivāra gatidhṛtilābhīḥ pūrvakeṣu hiteṣu caritavantaḥ abhiskāmavantaḥ śūravantaḥ ciravīryavantaḥ bhītavantaḥ sitabhāge mārgamudra diśāpakarṣaṇi kṣaparahu oharaṇo devaracatu suramudra yakṣamudra rākṣasamudra vedivedime tape tattape uṣṇāname prakhādye nanava dhāraṇīya āviśa diśāśodhane vākyaśuddhe jihvāśuddhe vāciparikarmaḥ prajñā buddhi smṛti mati gati dhṛti gaṇana pratisaraṇabuddhiḥ jayacakre śūnyacakre vyaya.
Tự mình là ý nghĩa, tự mình là khai mở, tự mình là khởi phát, tự mình là rúng động, tự mình là hoàn toàn bờ bên kia, tự mình là giáo pháp, tự mình không ô nhiễm, không đắm nhiễm, tự mình là hoàn toàn quy mạng nơi chính mình, tự mình là tiếp nhận cả hai bên, tự mình là niềm vui của chính mình, tự mình là sự hưng phấn, niềm tự hào của chính mình, tự mình là tuệ mati của chính mình, tự mình là sự hiện diện của chính mình, tự mình là bậc dũng mãnh, tự mình là sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, cùng với thiên chủ indra, cùng với chư thiên, cùng với long thần, cùng với chư thiên, dạ xoa và a-tu-la, sẽ cùng tự mình giải nghĩa chân thật, và cùng đoàn tuỳ tùng của họ hộ trì tự mình. Tự mình là thấu triệt hoàn toàn ý nghĩa, tự mình là chánh niệm, tự mình là tuệ giác prajñā, tự mình là tuệ mati hộ vệ, tự mình là đạt được trí tuệ và niệm lực, tự mình là hộ trì vận hành và định lực, tự mình là chứng đạt đạo lộ kiên cố, tự mình là người đi trước, tự mình là thực hành điều thiện, tự mình là đời sống thiện lành, tự mình là đầy đủ sở nguyện, tự mình là có được dũng mãnh, tự mình là dũng lực tinh tấn lâu dài, tự mình là không còn sợ hãi, tự mình là thuần trắng thanh tịnh, tự mình là dấu ấn con đường, tự mình là kéo về phương hướng, tự mình là diệt trừ chướng ngại, tự mình là sức mạnh hấp dẫn, tự mình là tạo thành chư thiên, tự mình là dấu ấn dũng mãnh, tự mình là dấu ấn thần Dạ xoa, tự mình là dấu ấn quỷ rākṣasa, tự mình là bàn thờ linh thiêng, tự mình là thiêu đốt khổ hạnh, tự mình là ngọn lửa nhiệt lực của chính mình, tự mình là thiêu đốt hoàn toàn, tự mình là tụng niệm sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, tự mình hãy nhập vào chính mình, tự mình là làm sạch các phương, tự mình là thanh tịnh lời nói, tự mình là thanh tịnh lưỡi, tự mình là lời nói thanh tịnh, tự mình là tuệ giác, tự mình là trí năng giác ngộ, tự mình là chánh niệm, tự mình là tuệ mati Tỉnh Thức, tự mình là con đường vận hành, tự mình là định lực kiên cố bền bỉ, tự mình là phân tích hợp lý, tự mình là quay về trí tuệ giác ngộ, tự mình là bánh xe chiến thắng, tự mình là bánh xe Tánh Rỗng Không, tự mình là hoàn toàn tiêu trừ tất cả vọng tưởng.
Nhờ những cảnh giới chứng nhập này, 56.000 A-tu-la đã khởi phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và họ đã được thiết lập nơi địa vị Không còn thoái chuyển.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã gọi vị Bồ Tát có tên là Tập Hội Biện Tài (vaiśāradyasamavasaraṇa), và nói rằng:
Này thiện nam tử, thật khó gặp sự xuất hiện trong thế gian của các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.
Hiếm có là những câu thần chú này, được thấm nhuần bởi Giới (śīla), chánh định samādhi, Tuệ Giác (prajñā), Giải thoát (vimukti), Trí Tuệ và Cái Thấy Giải thoát (vimukti-jñāna-darśana).
Này thiện nam tử, vì lợi ích cho chúng sinh, để thành tựu các công đức của Bồ Tát, đức Như Lai, trong thời quá khứ khi còn hành đạo Bồ Tát, đã tu tập và nắm giữ các pháp như Bố thí (dāna), Trì giới (sila), Nhẫn nhục (kṣānti), Tinh tấn (vīrya), Thiền chánh định samādhi và Tuệ Giác (prajñā), đã từng phụng thờ vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ đức Phật.
Có nơi Ta đã thực hành bố thí, có nơi trì giữ giới luật, có nơi sống phạm hạnh với lối sống thanh tịnh cao quý tinh khiết, có nơi tu tập thiền định, có nơi tu dưỡng nhẫn nhục, có nơi phát khởi tinh tấn, có nơi thành tựu chánh định samādhi, có nơi tu tập tuệ giác prajñā. Vô lượng điều thiện với muôn hình vạn trạng đã được Ta làm. Nhờ đó, hiện nay, Ta đã chứng được trí tuệ vô thượng.
Trong vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ kiếp, Ta khi hành đạo Bồ Tát đã xa lìa những ác khẩu như nói dối, nói đâm thọc, nói lời thô lỗ và nói lời vô nghĩa, đã hành trì và làm cho tăng trưởng nhiều loại thiện nghiệp về lời nói. Nhờ đó, hiện nay, Ta đã đạt được biện tài vô ngại trong lời nói, khả năng thuyết pháp vô biên. Nhờ những thiện nghiệp đó, này thiện nam tử, nên nay khi Ta đã thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác không bao giờ nói lời trái với chân lý.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, từ nơi ấy, đã gia trì hội chúng bằng thần thông, và do sự gia trì bằng thần thông như thế, Ngài nhập vào chánh định samādhi có tên là “Tập Hội Tất Cả Công Đức” (sarva-puṇya-samavasaraṇaṃ).
Từ miệng mình, Ngài đưa ra căn lưỡi, rồi che lại toàn thể khuôn miệng của chính mình; từ nơi căn lưỡi ấy, 600 triệu luồng hào quang đã phóng xuất ra. Nhờ những tia sáng ấy, 3000 đại thiên thế giới này trở nên sáng rỡ bởi ánh sáng rực rỡ cao quý. Và bởi các tia sáng ấy, các loài trong địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, và các chúng sinh trong cõi Diêm Ma, trời và người đều trở nên rõ ràng, hiển hiện. Những tia sáng ấy đến với các chúng sinh trong địa ngục đang bị thiêu đốt thân thể bởi lửa, thì đối với họ những cơn gió mát lành đã thổi tới. Những ai được chạm vào bởi luồng gió ấy, thì ngay trong khoảnh khắc đó, cảm thọ lạc đã khởi sinh. Và trước mặt của từng chúng sinh nơi địa ngục, hiện ra một vị Phật do thần lực hóa hiện, có thân thể trang nghiêm với 32 tướng tốt, và được rực rỡ bởi 80 vẻ đẹp. Thấy được vị Phật ấy, các chúng sinh nơi địa ngục đã được tràn đầy an lạc, thân thể họ được thấm nhuần bởi sự thấy Phật. Khi thấy đức Phật, họ liền suy nghĩ như sau: “Nhờ oai lực của vị ấy, chúng ta đã đạt được cảm thọ an lạc.” Họ phát khởi lòng kính ái, sự hoan hỷ và lòng tôn kính đối với đức Thế Tôn.
Hoá thân Phật ấy nói với họ rằng: “Này các chúng sinh, hãy nói lời này: ‘Con hoàn toàn quy mạng đức Phật Toàn Giác (namo buddhāya), con hoàn toàn quy mạng Chánh Pháp (namo dharmāya), con hoàn toàn quy mạng Thánh Tăng (namaḥ saṅghāya)’. Nếu luôn luôn niệm như vậy, các người sẽ được hiến mình cho an lạc.”
Ngay sau đó, các chúng sinh nơi địa ngục, chắp tay và cất tiếng: ‘Con hoàn toàn quy mạng đức Phật Toàn Giác, con hoàn toàn quy mạng Chánh Pháp, con hoàn toàn quy mạng Thánh Tăng’.
Lúc bấy giờ, các chúng sinh nơi địa ngục ấy, nhờ vào căn lành ấy và nhờ vào tâm hoan hỷ phát sinh, liền từ bỏ đời sống cũ, một phần sinh lên cõi trời, một phần sinh vào cõi người.
Còn những chúng sinh nào sinh vào các địa ngục lạnh giá, thì đối với họ, những luồng gió ấm thổi đến. Những ai được chạm vào bởi luồng gió ấm ấy, thì ngay trong khoảnh khắc đó, cảm thọ lạc đã khởi sinh. Và trước mặt của từng chúng sinh nơi địa ngục lạnh giá ấy, hiện ra một vị Phật do thần lực hóa hiện, có thân thể trang nghiêm với 32 tướng tốt, và được rực rỡ bởi 80 vẻ đẹp. Thấy được vị Phật ấy, các chúng sinh nơi địa ngục đã tràn đầy an lạc, thân thể họ được thấm nhuần bởi sự thấy Phật. Khi thấy đức Phật, họ liền suy nghĩ như sau: “Nhờ oai lực của vị ấy, chúng ta đã đạt được cảm thọ an lạc.” Họ phát khởi lòng kính ái, sự hoan hỷ và lòng tôn kính đối với đức Thế Tôn.
Hoá thân Phật ấy nói với họ rằng: “Này các chúng sinh, hãy nói lời này: ‘Con hoàn toàn quy mạng đức Phật Toàn Giác, con hoàn toàn quy mạng Chánh Pháp, con hoàn toàn quy mạng Thánh Tăng’. Nếu luôn luôn niệm như vậy, các người sẽ được hiến mình cho an lạc.”
Ngay sau đó, các chúng sinh nơi địa ngục, chắp tay và cất tiếng: ‘Con hoàn toàn quy mạng đức Phật Toàn Giác, con hoàn toàn quy mạng Chánh Pháp, con hoàn toàn quy mạng Thánh Tăng’.
Lúc bấy giờ, các chúng sinh nơi địa ngục ấy, nhờ vào căn lành ấy và nhờ vào tâm hoan hỷ phát sinh, liền từ bỏ đời sống cũ, một phần sinh lên cõi trời, một phần sinh vào cõi người.
Cũng vậy, đối với các loài ngạ quỷ, và loài quỷ piśāca, thân thể họ bị thiêu đốt bởi lửa đói khát, thì những tia sáng ấy làm tắt ngọn lửa của sự thèm khát ăn uống, và khởi lên cảm thọ an lạc. Trước mặt mỗi một ngạ quỷ, hiện ra một thân Phật do thần lực hóa hiện được trang nghiêm với 32 tướng tốt của bậc Đại Nhân, và thân thể rực rỡ bởi 80 vẻ đẹp.
Thấy được vị Phật ấy, các ngạ quỷ ấy, nhờ sự thấy Phật, thân thể tràn đầy hỷ lạc, và suy nghĩ như sau: “Nhờ oai lực của vị ấy, chúng ta đã đạt được cảm thọ an lạc.” Họ phát khởi tâm hoan hỷ, lòng thương kính, và sự tôn trọng đối với đức Thế Tôn.
Hoá thân Phật ấy nói với họ rằng: “Này các chúng sinh, hãy nói lời này: ‘Con hoàn toàn quy mạng đức Phật Toàn Giác, con hoàn toàn quy mạng Chánh Pháp, con hoàn toàn quy mạng Thánh Tăng’. Nếu luôn luôn niệm như vậy, các người sẽ được hiến mình cho an lạc.”
Ngay sau đó, các chúng sinh nơi địa ngục, chắp tay và cất tiếng: ‘Con hoàn toàn quy mạng đức Phật Toàn Giác, con hoàn toàn quy mạng Chánh Pháp, con hoàn toàn quy mạng Thánh Tăng’.
Rồi thì, các chúng sinh ngạ quỷ ấy, nhờ vào căn lành ấy, từ đó lìa đời và tái sinh, một phần sinh vào cõi trời, một phần sinh vào cõi người. Và như vậy, họ còn khởi lên ý định hướng dẫn loài súc sinh và loài người thực hành theo Phật pháp.
Lúc bấy giờ, có vô lượng chư thiên và loài người, đến gần nơi đức Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi ngồi xuống để lắng nghe chánh pháp. Và vào lúc ấy, vô lượng chư thiên và loài người đã phát khởi tâm hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và tại nơi ấy, vô lượng vị Bồ Tát đã chứng đắc các pháp chánh định samādhi, nhẫn lực và sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī.
Đây là Phẩm thứ hai có tên là “Cửa Vào sức mạnh Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī”, thuộc Thánh Kinh Đại Thừa Hoa Sen Trắng Puṇḍarīka Đại Bi Thanh Tịnh, đến đây là hoàn tất.
3. dāna-visargaḥ tṛtīyaḥ
3. Phẩm Xả Bỏ Bố Thí
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Tuệ Mati Tịch Tĩnh Đại Bồ Tát (śāntimati), khi đức Thế Tôn vừa mới buông xả sự gia trì thần lực của mình, đã thưa với đức Thế Tôn như sau:
Thưa đức Thế Tôn, nguyên nhân nào, và duyên cớ nào khiến cho cõi Phật của các đức Phật Thế Tôn khác đều hoàn toàn thanh tịnh, không còn nhiễm uế, đã lìa xa năm loại cấu trược, và được trang nghiêm bằng vô số công đức sai biệt, tất cả các Bồ Tát và Đại Bồ Tát ở nơi đó đều đầy đủ vô số phẩm hạnh sai biệt, được thọ nhận các loại an lạc khác nhau, không có danh xưng nào của hàng Thanh Văn và Độc Giác Phật, huống gì có sự tái sinh?
Thưa đức Thế Tôn, nguyên nhân nào, và duyên cớ nào khiến cho chính đức Thế Tôn lại sinh vào cõi Phật đầy năm ô trược, đó là: sự ô nhiễm của thọ mạng (āyuḥ-kaṣāya), sự ô nhiễm của kiếp (kalpa-kaṣāya), sự ô nhiễm của chúng sinh (sattva-kaṣāya), sự ô nhiễm của cái thấy (dṛṣṭi-kaṣāya), và sự ô nhiễm của phiền não (kleśa-kaṣāya), vậy mà vẫn thành tựu được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và còn thuyết pháp cho bốn hội chúng, khai triển ba thừa?
Vì sao đức Thế Tôn lại không chọn một cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh, lìa xa năm thứ cấu uế?
Đức Thế Tôn nói rằng:
Này thiện nam tử, tùy theo sức của bản nguyện, các Bồ Tát có vị chọn lấy cõi Phật thanh tịnh, có vị lại chọn lấy cõi Phật không thanh tịnh. Vì do được thấm nhuần bởi Đại Bi, các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát mới chọn lấy cõi Phật không thanh tịnh.
Vì sao vậy?
Chính là bởi Ta đã phát nguyện như thế, nên nay, ta mới sinh vào cõi Phật đầy năm trược khổ não như vậy.
Này Tuệ Mati Tịch Tĩnh, hãy lắng nghe điều ấy, hãy khéo chú tâm, Ta sẽ vì ông mà nói.
“Lành thay, thưa đức Thế Tôn!”, Bồ Tát Tuệ Mati Tịch Tĩnh kính cẩn lắng nghe lời dạy của đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn nói như sau:
Thuở quá khứ, này thiện nam tử, đã từng có một đại kiếp mang tên là Thủ Trì (dhāraṇaḥ), thuộc về cõi Phật này, vào thời điểm đã vượt qua a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp trong quá khứ.
Vào đại kiếp ấy, trong cõi Phật ấy, tại một hành tinh có đủ bốn châu, có một vị vua tên là Araṇemi - Viền Bánh Xe Không Chiến Tranh đã xuất hiện, là vị Chuyển luân thánh vương thống lãnh bốn châu thiên hạ.
Lúc bấy giờ, vị đại thần tư tế tối cao (purohitaḥ), phục vụ cho vua và đại gia đình hoàng tộc, có trách nhiệm cầu an, bảo hộ quốc gia bằng nghi thức thiêng liêng, là một đạo sư tinh thần tối cao, người chỉ đạo lối sống và đưa ra các lời khuyên dựa trên kinh điển cho đức vua và hoàng gia, là người chịu trách nhiệm về nghi lễ, đạo đức, và bảo vệ giáo pháp trước nhà vua và triều đình của vua Araṇemi, là một vị Bà-la-môn (brāhmaṇaḥ) tên là Samudrareṇu - Đại Dương Hạt Lượng Tử.
Người con trai của vị Bà-la-môn ấy được sinh ra, đầy đủ 32 tướng của bậc đại nhân, tỏa sáng với 80 vẻ đẹp, có hàng trăm tướng phước đức, hào quang thân rộng một sải tay, tướng vai tròn như cây đa nyagrodha, dáng đi vững như nước không bị chao đảo. Khi vừa mới sinh ra, đã được hàng trăm ngàn chư thiên đến cúng dường, và đặt tên là Samudragarbha - Tạng Đại Dương. Về sau, vị ấy xuất gia, cạo bỏ râu tóc, khoác y ka-sa, và đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài xuất hiện với danh hiệu Ratnagarbha - Tạng Ngọc Quý Như Lai.
Với việc chuyển bánh xe chánh pháp, đức Thế Tôn ấy đã an lập vô lượng hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chúng sinh vào quả vị của cõi trời và giải thoát.
Sau đó, được vây quanh và tôn kính bởi vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ các vị Thanh Văn, Ngài du hóa khắp các thôn làng, thành thị, thị trấn, quốc độ và kinh đô, rồi tuần tự đi đến một thành phố kia, nơi mà vị vua Chuyển Luân Thánh Vương đang cư trú.
Lúc bấy giờ, đức vua nghe được lời sau: “Không xa bên ngoài thành phố, tại khu rừng tên là rừng cây mận Jambu, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đang cư trú cùng với vô số trăm ngàn triệu tỷ tỷ vị Thanh Văn.”
Vua Araṇemi liền nghĩ: “Đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đã đến vùng lãnh thổ của ta, hiện đang cư ngụ tại rừng cây mận Jambu, cùng với vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ vị Thanh Văn. Vậy thì, ta nên đến gần để tôn kính Ngài, xem Ngài là bậc thầy, và cung kính đảnh lễ Ngài.”
Khi ấy, vua Araṇemi, với oai lực của bậc đế vương và đại oai nghi của bậc đại đế, được vây quanh và dẫn đầu bởi vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chúng sinh, liền xuất hành ra khỏi kinh thành. Vua đến khu rừng cây mận Jambu, khi đến nơi, vừa tới mức đất có thể đi bằng xe, thì Ngài dùng xe để đến đó, rồi xuống xe và đi bộ vào bên trong khu vườn yên tĩnh ārāma. Ngài tiến đến chỗ đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai. Đến nơi, Ngài cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, rồi đi nhiễu ba vòng bên phải, và ngồi xuống một bên.
Với đức vua Araṇemi đang ngồi một bên, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, liền giảng nói chánh pháp, làm cho thấy chơn chánh, làm cho thọ trì chơn chánh, phát khởi tinh tấn chơn chánh, và làm cho vua và mọi người hoan hỷ tăng trưởng.
Với nhiều cách nói pháp khác nhau, đức Phật đã chỉ bày, giúp cho vua thọ trì, phát khởi chơn chánh, khiến cho vua tăng trưởng hoan hỷ, rồi sau đó im lặng.
Phương pháp cúng dường và xả bỏ bố thí của vua Araṇemi
Lúc bấy giờ, vua Araṇemi đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vắt thượng y lên một bên vai, quỳ gối phải xuống đất trước mặt đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, chắp tay cung kính, và thưa với đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác như sau:
“Thưa đức Thế Tôn, xin Ngài từ bi nhận lời ở lại trong ba tháng mùa mưa này cùng với Tăng đoàn Tỳ-kheo. Con xin được cúng dường ngại và cả Tăng đoàn Tỳ kheo y phục, đồ ăn khất thực, giường nằm và chỗ ngồi, thuốc men trị bệnh, cùng các vật dụng cần thiết.”
Này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đã im lặng nhận lời lời thỉnh cầu của vua Araṇemi.
Sau đó, vua Araṇemi, biết rằng đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đã im lặng nhận lời, liền cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, đi nhiễu ba vòng theo chiều bên phải, rồi từ nơi đức Thế Tôn lui ra.
Rồi vua Araṇemi, triệu tập các vương hầu, quan đại thần, quan chỉ huy quân sự, các trưởng giả nơi kinh thành và nhân dân các vùng, cũng như các quan nội thị, và nói rằng:
Ta muốn các trưởng giả và nhân dân đều biết rằng: Đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đã được ta thỉnh mời trong ba tháng an cư mùa mưa, với lời hứa cúng dường đầy đủ mọi vật dụng, cùng với Tăng đoàn Tỳ Kheo.
Do đó, bất cứ thứ gì thuộc về chế độ hưởng thụ và tài sản của ta, việc cung phụng hằng ngày, hay trong nội cung, tất cả ta xin kính dâng lên đức Thế Tôn, và cả cho Tăng đoàn Tỳ Kheo.
Còn những gì thuộc về sở hữu cá nhân của các khanh, như vật dụng hưởng thụ, cung phụng hằng ngày, hay nội thất trong phủ của mình, các khanh cũng nên dâng cúng lên đức Thế Tôn và Tăng đoàn một cách trân trọng. Và tất cả các vị ấy đều đã vâng lời vua Araṇemi và dâng cúng đầy đủ.
Có vị trưởng giả giàu có cũng biến toàn bộ khu rừng đẹp ấy thành nơi lát vàng ròng Jambūnada. Ngay tại khu vườn đó, ông xây dựng một tịnh xá mái cao kūṭāgāra dành cho đức Thế Tôn, được làm bằng bảy loại báu, bốn phương xung quanh đều có cửa ra vào cũng được dựng nên bằng bảy loại báu.
Toàn bộ khu rừng được trang hoàng bằng các cây làm từ bảy loại báu. Những cây ấy được trang hoàng bằng nhiều loại vải khác nhau, nhiều loại lụa quý, nhiều loại lọng, nhiều chuỗi anh lạc bằng ngọc trai khác nhau, nhiều loại trang sức khác nhau, và các loại trang sức làm từ nhiều loại châu báu, cùng các hương liệu quý dịu dàng đa dạng. Các cây ấy cũng được trang trí bằng hoa và quả làm từ các loại châu báu quý báu nhất. Toàn bộ khu rừng ấy được trang hoàng bằng vô số các loại ngọc quý ma-ṇi khác nhau.
Nền đất khu rừng rải đầy các loại hoa khác nhau, các tòa ngồi được bày biện bằng những tấm phủ, vải gấm và lụa quý đa dạng. Và ngay bên ngoài tịnh xá mái cao kūṭāgāra của đức Thế Tôn, bánh xe báu cũng được sắp đặt với kích thước bằng thân người, treo ở giữa hư không phía trên, và đang phát sáng rực rỡ.
Voi trắng quý, với toàn thân trắng sáng, đầy đủ bảy phần viên mãn, đứng phía sau đức Thế Tôn, và trên thân voi ấy nâng đỡ cây báu. Cây báu ấy được trang hoàng bằng bảy loại châu báu, bằng các chuỗi anh lạc ngọc trai nhiều loại, trang sức rực rỡ các loại, vòng hoa nhiều loại, vải lụa có nhiều màu sắc, và nhiều loại vải quý khác được phủ lên. Trên đỉnh cây báu ấy, có đặt một chiếc lọng làm bằng bảy loại châu báu.
Vị chánh hậu của vua Araṇemi, đang đứng phía trước đức Thế Tôn, rải bột hương trầm loại gośīrṣa-candana và Trầm rắn quý uragasāra-candana lên mình đức Thế Tôn.
Viên bảo châu phát sáng mà vua Araṇemi sở hữu, ông tự tay đem đến đặt trước mặt đức Thế Tôn. Nhờ ánh sáng phát ra từ viên bảo châu ấy, toàn bộ khu vườn ấy liên tục và đồng đều, trở nên rực rỡ rõ ràng với ánh sáng uy nghi.
Nhờ ánh sáng tỏa chiếu từ đức Phật, toàn bộ 3000 đại thiên thế giới cũng trở nên rực rỡ rõ ràng, một cách liên tục và bao trùm khắp nơi.
Trước mỗi vị Thanh Văn, đều được đặt một bệ ngồi làm bằng trầm hương gośīrṣa-candana. Phía sau mỗi vị Thanh Văn, đều có đặt một con voi trắng toàn thân. Trên đỉnh voi ấy, một bánh xe báu có kích thước bằng người cũng được đặt, giống như bánh xe báu của đức Thế Tôn. Phía trước mỗi vị Thanh Văn, có đặt một thiếu nữ được trang hoàng đầy đủ mọi loại trang sức. Các thiếu nữ ấy rải bột hương làm từ trầm gośīrṣa và Trầm rắn quý uragasāra. Phía trước mỗi vị Thanh Văn, cũng đặt một viên ngọc lưu ly.
Bên trong khu rừng, khắp mọi nơi, vô số loại nhạc cụ khác nhau được tấu lên.
Còn ở bên ngoài khu rừng, khắp mọi phía, bố trí các tướng lĩnh, cùng với bốn bộ quân đội, cùng nhau phân chia đường sá và hướng dẫn mọi người cách đi đến đảnh lễ và cúng dường đức Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vua Araṇemi mỗi ngày đều từ thành rời đi, đến để chiêm ngưỡng, đảnh lễ và phụng sự thân cận đức Thế Tôn. Phạm vi nào có thể đến được bằng xe, thì vua đi bằng xe đến nơi ấy; rồi xuống xe, tự mình đi bộ bằng hai chân, và tiến vào khu rừng.
Tiến vào, vua đến nơi đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đang ngự. Khi đến nơi, vua đảnh lễ sát đất dưới chân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, và nhiễu quanh ba vòng theo chiều bên phải.
Đích thân vua dâng nước rửa tay cho đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, rồi chính tay mình dâng cúng các món ăn ngon, thượng hạng và phong phú, gồm cả thức ăn cứng, mềm, kem mút, và đồ uống.
Sau khi đích thân dâng cúng xong, khi thấy đức Thế Tôn đã thọ thực, tay đã rửa sạch, tay không còn trong bát, vua liền tự mình cầm quạt và quạt cho đức Thế Tôn.
Với mỗi vị Thanh Văn, 1.000 vương tử, và 1.000 vua chư hầu thực hiện sự phụng sự như thế, mỗi người cầm quạt và quạt cho các vị Thanh Văn.
Ngay sau khi đức Phật và chư Tăng thọ thực xong, có vô số sinh linh, lên đến hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chúng sinh, đã tiến vào khu rừng yên tĩnh ārāma để nghe pháp.
Trên không trung, từ vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chư thiên, hoa trời rơi xuống như mưa, nhạc trời vang lên, lọng báu, vải trời và các chuỗi anh lạc thiên giới được buông thả xuống.
40.000 thần Dạ-xoa, mặc y phục màu xanh, lấy củi từ vùng Candanadīpa, cụ thể là gỗ trầm gośīrṣa-candana, để lo liệu việc nấu ăn cho đức Thế Tôn và cả đại chúng Tỳ Kheo.
Vào ban đêm, chính đức vua Araṇemi đã tự tay thắp lên vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ ngọn đèn trước mặt đức Thế Tôn và đại chúng Tỳ-kheo.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vua Araṇemi đứng trước đức Thế Tôn, đặt một đĩa đèn trên đỉnh đầu, hai đĩa nơi hai vai, hai đĩa nơi hai bàn tay, và hai đĩa nơi hai bàn chân. Suốt cả đêm, vị vua ấy tiếp tục thắp sáng ngọn đèn trước mặt đức Thế Tôn, và nhờ oai lực của đức Thế Tôn, thân thể của vua không mỏi mệt, cảm nhận được niềm an lạc thân thể vi diệu như vậy. Giống như một vị Tỳ-kheo nhập vào tầng thiền thứ ba, thì thân của vị ấy không mỏi mệt, tâm cũng không mỏi mệt. Vị vua ấy đã phụng sự đức Thế Tôn trong suốt ba tháng.
Cũng như thế, 1.000 vương tử, và 84.000 vị vua các nước chư hầu, và vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chúng sinh, đã phụng sự từng vị Thanh Văn một, bằng các phẩm vật của hoàng gia,
trong suốt ba tháng theo phương thức cúng dường như vậy.
Như vua Araṇemi đã phụng sự đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, thì vị hoàng hậu của ông cũng phụng sự suốt ba tháng bằng hương thơm và hoa báu.
Cũng vậy, từ vô số trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ thiếu nữ, mỗi vị Thanh Văn đều được phụng sự trong suốt ba tháng bằng hoa thơm và hương quý.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, sau khi trải qua ba tháng, vua Araṇemi đã dâng cúng lên đức Thế Tôn 84.000 thỏi vàng ròng làm bằng vàng Jambū-nada. 84.000 bánh xe báu bằng vàng, dẫn đầu bởi những bánh xe chính cakra, cũng được hiến cúng lên đức Thế Tôn. 84.000 voi trắng dẫn đầu bởi voi báu hasti-ratna, cũng được hiến cúng lên đức Thế Tôn. 84.000 ngựa quý, dẫn đầu bởi ngựa báu aśva-ratna, được dâng lên đức Thế Tôn. 84.000 ngọc báu mặt trời sūryakānti, dẫn đầu bởi viên ngọc quý maṇi, được cúng dường lên đức Thế Tôn.
84.000 vương tử, đứng đầu là các gia chủ hiền trí, cũng được dâng hiến lên đức Thế Tôn. 84.000 vua các nước chư hầu, dẫn đầu bởi các vị hộ quốc đại thần, được phái đến để phụng sự đức Thế Tôn. 84.000 thành phố, đứng đầu bởi các đô thành thịnh vượng, được hiến cúng làm tài sản duy trì sinh hoạt và các hoạt động cho đức Thế Tôn và đại chúng Tỳ-kheo.
Và thêm nữa, 84.000 cây báu làm bằng châu báu, 84.000 bó hoa châu báu, 84.000 tán lọng bảy báu, 84.000 bộ y phục trang nghiêm quý giá dành cho vua, 84.000 chuỗi hoa báu, cùng các vật trang sức như: Ngài báu, mão báu, tròng mắt kiếng, hoa tai bằng vàng, xâu chuỗi bằng vàng, chuỗi ngọc trai, giày quý, giường nằm, bệ gác chân, bát đựng thực, trống đồng, nhạc khí, ốc, chuông, cờ phướn, vườn rừng thanh tịnh ārāma, và các đĩa đèn, tất cả đều được vua Araṇemi dâng cúng lên đức Thế Tôn.
Các loài chim làm bằng châu báu, các loài thú làm bằng châu báu, cùng với 84.000 cây quạt, đã được dâng cúng lên đức Thế Tôn. 84.000 vị thuốc trường sinh rasāyana, đã được hiến cúng lên đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.
Ngài lại thưa rằng:
Thưa đức Thế Tôn, con có nhiều việc cần làm, nhiều điều cần xử lý, xin đức Thế Tôn thứ lỗi cho con; cúi xin đức Thế Tôn hãy an trú nơi khu rừng của chúng con, xin đức Thế Tôn hãy thường xuyên hoan hỷ ở lại tại khu rừng này; sau đó con sẽ lại đến đảnh lễ, chiêm ngưỡng, và cúng dường đức Thế Tôn.
Và 1.000 người con trai của vua Araṇemi, đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, từng người một đã thưa rằng:
Cúi xin đức Thế Tôn hãy hoan hỷ an trú lại nơi mỗi chúng con đã chuẩn bị trong suốt ba tháng, chúng con sẽ phụng sự đức Thế Tôn và đại chúng Tỳ-kheo, với đầy đủ mọi vật dụng.
Đức Thế Tôn, bằng sự im lặng chấp thuận, đã hoan hỷ nhận lời dâng cúng trong ba tháng của 1.000 vương tử ấy.
Khi biết rằng đức Thế Tôn đã chấp thuận lời thỉnh cầu của các vương tử ấy, vua Araṇemi liền đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, đi nhiễu ba vòng quanh đức Thế Tôn và đại chúng Tỳ-kheo ba vòng theo chiều bên phải, rồi từ giã.
Phương pháp cúng dường và xả bỏ bố thí của Thái tử Animiṣa, 1000 vương tử, và 84.000 vị vua chư hầu
Lúc ấy, trong số các vương tử đó, người con trưởng tên là Animiṣa (Không Chớp Mắt), đã phụng sự đức Thế Tôn và đại chúng Tỳ-kheo trong suốt ba tháng, bằng sự phụng sự giống như vua Araṇemi đã làm.
Giống như vua Araṇemi, thì cũng vậy, mỗi ngày, 1.000 vương tử đứng đầu bởi Thái tử Animiṣa, đều đến gần đức Thế Tôn để chiêm ngưỡng, đảnh lễ và phụng sự, cũng như đến gần đại chúng Tỳ-kheo, để lắng nghe chánh pháp. Và cứ lần lượt như vậy, mỗi vị vương tử đều tuần tự cúng dường đức Thế Tôn và đại chúng Tỳ-kheo, tổng cộng lại là 250 năm.
Này thiện nam tử, cha của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai tên là Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, là một vị Bà-la-môn, đã đi khắp toàn cõi Diêm Phù Đề (jambūdvīpam), khất thực từ tất cả mọi người, bao gồm phụ nữ, đàn ông, bé trai và bé gái. Sau khi đã nhận được vật thực ấy, ông ấy đã khiến toàn thể dân cư trong cõi Diêm Phù Đề an trú vào sự quy y Tam Bảo. Sau khi đã khiến họ an trú vào sự quy y, ông ấy khởi phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nhờ công hạnh đi khất thực như thế, không có một ai trong cõi Diêm Phù Đề là người mà không từng được tiếp xúc với vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, qua việc cho thức ăn do ông ấy khất thực. Không có ai mà không từng được an trú vào sự quy y Tam Bảo, hay là người không từng khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và cũng không có ai mà không từng được hướng dẫn, thiết lập vào Trí Tuệ Vô Thượng (ānuttara jñāna). Hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chúng sinh đã được an trú nơi sự hành trì quy y Tam Bảo, được hướng dẫn, dẫn nhập, và thiết lập vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thái tử Animiṣa cũng đã phụng sự đức Thế Tôn trong ba tháng với sự hầu cận tương tự như của vua Araṇemī, cùng với đại chúng Tỳ-kheo, bằng phương thức cung kính như đã trình bày ở trên. Vị ấy, sau khi ba tháng trôi qua, đã hiến cúng 84.000 bánh xe báu, cùng với vô số thành phố toàn bằng vàng ròng. Và đã cúng dường các bảo vật vi diệu như: voi báu, ngựa báu, ngọc báu maṇi, mỹ nữ, gia chủ giàu có, và quân đội tinh nhuệ để hộ vệ; cùng với 84.000 con voi và ngựa được hiến dâng.
Tương tự như vậy, các vật phẩm cúng dường gồm có: Ngọc Maṇi mặt trời sūryakānti, các thiếu nữ mỹ lệ, các thiếu niên, cây báu ban nguyện, núi hoa, lọng báu, y phục, vòng hoa và trang sức, tòa báu, mũ báu, khuyên tai, chỉ vàng, chuỗi ngọc, giày dép báu, giường nằm, bệ chân, bát đựng thức ăn, trống lớn, chuông lớn, tù và, cờ phướn, các loại vật dụng trang hoàng khác, đèn dầu và dĩa đựng đèn, v.v...
Cũng hiến cúng nhiều loại chim và thú vật được làm bằng các loại báu vật khác nhau. Cũng như nhiều loại dược phẩm và tiên đơn rasāyana, mỗi loại đều cúng dường 84.000 đơn vị cho đức Thế Tôn, và cũng như thế cho đại chúng Tỳ-kheo.
Lúc bấy giờ, vị thái tử ấy đã thành tâm sám hối, chấm dứt mọi điều ác, và thực hành mọi điều lành với đức Thế Tôn và cả đại chúng Tỳ-kheo.
Thái tử Animiṣa đã phụng sự đức Thế Tôn cùng với đại chúng Tỳ-kheo, bằng hình thức cúng dường như thế, giống hệt như vua Araṇemī. Các phẩm vật cúng dường mà vị ấy dâng lên là vô lượng.
Trong mỗi ba tháng ấy, đức Thế Tôn đã được phụng sự bởi đoàn con vua, và toàn bộ tài sản của họ đều được buông xả, theo danh sách các vị vương tử như sau:
Vương tử Anaṅgaṇa - Không Ô Nhiễm,
Vương tử Abhaya - Không Sợ Hãi,
Vương tử Ambara - Bầu Trời,
Vương tử Aśaja - Không Ham Muốn,
Vương tử Middha - Buồn Ngủ,
Vương tử Miṣa - Lẫn Lộn,
Vương tử Mārdava - Hiền Hoà,
Vương tử Paṅgagaṇa - Tụ Bùn Lầy,
Vương tử Mādhvava - Hương Mùa Xuân,
Vương tử Mānavo - Nhân Loại,
Vương tử Māsaṃva - Theo Từng Tháng,
Vương tử Mājava - Thẳng Thắn,
Vương tử Arava - Tiếng Vang,
Vương tử Ājñava - Người Truyền Mệnh Lệnh,
Vương tử Mukhava - Người Có Khuôn Mặt Đặc Biệt,
Vương tử Arthabahu - Nhiều Ý Nghĩa,
Vương tử Alindra - Không Có Chủ,
Vương tử Nerava - Tĩnh Lặng,
Vương tử Reṇaja – Sinh Từ Bụi
Vương tử Candranemī – Vành Bánh Xe Mặt Trăng
Vương tử Sūryanemī – Vành Bánh Xe Mặt Trời
Vương tử Indranemī – Vành Bánh Xe Indra
Vương tử Vajranemī – Vành Bánh Xe Kim Cang
Vương tử Kṣāntinemī – Vành Bánh Xe Nhẫn Nhục
Vương tử Sthānanemī – Vành Bánh Xe Trụ Cố
Vương tử Javanemī – Vành Bánh Xe Tốc Hành
Vương tử Raṇemī – Vành Bánh Xe Chiến Đấu
Vương tử Rāhu – La Hầu
Vương tử Rāhubala – Sức Mạnh Của La Hầu
Vương tử Rāhucitra – La Hầu Kỳ Dị
Vương tử Dāmacitra – Hình Tướng Điều Phục
Vương tử Rājadhāna – Kinh Đô
Vương tử Rāgabhrama – Mê Loạn Vì Dục Ái
Vương tử Rāndhava – Kẻ Lang Thang
Vương tử Rakṣaka – Người Bảo Hộ
Vương tử Kāya – Thân Thể
Vương tử Śayamā – Kẻ Nằm Nghiêng
Vương tử Yatrava – Kẻ Hành Trình
Vương tử Syajala – Người Dẫn Dắt Nước
Vương tử Yārmatha – Người Nắm Giữ Luân Lý
Vương tử Yadhvaja – Cờ Xí Danh Dự
Vương tử Yamāna – Kẻ Kiềm Chế
Vương tử Yasyana – Người Truyền Dạy
Vương tử Namajyoti – Ánh Sáng Cúi Mình
Vương tử Arañjanadhva – Con Đường Không Ô Nhiễm.
Cho đến khi toàn bộ 1.000 người con trai của vua Araṇemī, từng người một, đã phụng sự đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, cùng với vô số đại chúng Tỳ-kheo, bằng sự cúng dường như đã được mô tả ở trên.
Trong ba tháng, với các vật phẩm như y phục, thức ăn khất thực, giường nằm và chỗ ngồi, thuốc men chăm sóc người bệnh, họ đã phụng sự giống như thái tử trưởng.
Tương tự như vậy, mỗi một vị vương tử đã dâng cúng 84.000 bánh xe bằng vàng ròng, và tiếp tục cho đến 84.000 đơn vị thuốc trường sinh cho đức Thế Tôn và cả đại chúng Tỳ-kheo.
Sau khi phát nguyện bằng sự cúng dường vĩ đại như thế, có người nguyện sinh làm chư thiên, có người cầu làm Thiên Đế Śakra, có người mong làm Ma vương, có người cầu làm vua Chuyển Luân Thánh Vương, có người cầu được đại phú đại quý, có người hướng đến Thừa Thanh Văn, có người nguyện tu theo Thừa Độc Giác. Họ, trong suốt 255 năm, đã thành tâm sám hối, chấm dứt mọi điều ác, và thực hành mọi điều lành với đức Thế Tôn và đại chúng Tỳ-kheo.
Vào thời điểm ấy, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, là vị đại thần tư tế tối cao, đã đến gần và trông thấy đức Thế Tôn đang được các vương tử phụng sự. Thấy vậy, ông phát lời thỉnh mời trong suốt 7 năm, cung cấp đầy đủ các vật dụng, gồm y phục, thức ăn khất thực, giường nằm và chỗ ngồi, thuốc men chăm sóc người bệnh, để phụng sự đức Thế Tôn cùng đại chúng Tỳ-kheo.
Đức Thế Tôn, với sự im lặng chấp thuận, đã nhận lời thỉnh mời của vị đại thần tư tế tối cao – là phụ thân của Ngài.
Lúc bấy giờ, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử đã phụng sự đức Thế Tôn với sự cúng dường đầy đủ mọi vật dụng, gồm y phục, thức ăn khất thực, giường nằm và chỗ ngồi, thuốc men chăm sóc người bệnh, cùng với đại chúng Tỳ-kheo.
Giấc mộng của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vào một thời điểm khác, trong tâm ý của vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, đã khởi lên suy nghĩ như sau:
Ta đã khiến cho vô lượng chúng sinh — hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ sinh linh — phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhưng ta không biết vị quốc vương Araṇemī đã phát nguyện như thế nào. Ông ấy cầu nguyện điều gì? Mong sinh vào cõi trời chăng? Hay làm Thiên śakra? Hay làm Ma vương? Hay mong cầu đại phú đại quý? Hoặc là tu theo Thanh Văn Thừa? Hay tu theo Độc Giác Thừa? Hay là nguyện cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?
Giả như ta thành tựu được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ta nguyện độ thoát những chúng sinh chưa qua bờ, giải thoát những ai chưa được giải thoát, thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, não và các điều khổ não ràng buộc; khiến những chúng sinh chưa nhập Niết-bàn sẽ được nhập Niết-bàn, trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối.
Vậy thì trong mộng, xin một vị trời, dạ xoa, long thần, hay một vị Phật, Thanh Văn, hoặc một vị Bà-la-môn nào hãy hiện ra chỉ dạy. Rốt cuộc, vị quốc vương ấy mong muốn sự giàu sang của chư thiên, hay sự giàu sang của nhân gian? Hay là mong cầu quả vị Thanh Văn, hoặc quả vị Độc Giác Phật? Hay là nguyện cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vị Bà-la-môn tên là Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, người giữ chức tư tế tối cao, trong giấc mộng đã thấy một hiện tượng huy hoàng, nhờ ánh sáng đó, ông trông thấy các đức Phật Thế Tôn trong mười phương tại vô số Hằng Hà Sa cõi Phật. Và các đức Phật Thế Tôn ấy, đã gửi đến cho vị Bà-la-môn này các đoá hoa sen padmā với cánh hoa bằng vàng, cuống bằng bạc, nhuỵ hoa bằng lưu ly, và nhị hoa bằng đá quý.
Trong mỗi đoá hoa sen padma ấy đều hiện rõ một vòng tròn mặt trời; và trên mỗi vòng tròn mặt trời đó, có dựng một lọng bằng bảy báu. Từ mỗi vòng tròn mặt trời ấy phát ra 600 triệu tia sáng, và các tia sáng đó đều đi vào miệng của vị Bà-la-môn ấy.
Ngay lập tức, ông thấy thân mình, lớn đến 1.000 yojana (12.000km), hoàn toàn thanh tịnh, như mặt gương sạch sáng không tỳ vết. Trong phần bụng của chính thân mình, ông thấy 6.000 tỷ tỷ tỷ Bồ Tát, đang ngồi kiết già trên những đoá sen padma, và nhập thiền định. Trên đầu của mình, ông lại thấy các Bồ Tát ấy hiện thành các vòng tròn mặt trời tạo thành tràng hoa; và trên không trung, ông thấy một chiếc lọng bằng bảy báu dựng lên cao đến tận cõi trời Phạm Thiên.
Ông cũng thấy vô số đoá hoa sen khác nhau được sắp đặt xung quanh, từ những đoá sen ấy phát ra các nhạc cụ thiên giới, siêu việt hơn âm nhạc loài người, và ông nghe thấy âm thanh đó.
Trong giấc mộng đó, ông thấy quốc vương Araṇemī, với toàn thân nhuộm đầy máu, đang chạy, đầu mang mặt heo, và ăn thịt nhiều sinh linh khác nhau. Sau khi ăn xong, ông ta ngồi dưới gốc cây thầu dầu eraṇḍa (cây Ricinus). Lại có vô số sinh vật đến, ăn thịt vị vua ấy, cho đến khi chỉ còn xương trắng sót lại, rồi mang đi mất.
Lại nữa, ông thấy hiện tượng ấy lập đi lập lại nhiều lần, vẫn với thân mang mặt heo, mình đầy máu, ăn thịt chúng sinh rồi ngồi dưới gốc cây, bị sinh vật khác đến ăn thịt, chỉ còn lại bộ xương rồi bị lấy mất.
Lại thấy các vương tử có kẻ mang mặt heo, kẻ mang mặt voi, mặt trâu, mặt sư tử, mặt sói, mặt chó rừng, mặt chó nhà, mặt khỉ, toàn thân đẫm máu, ăn thịt vô số sinh linh, rồi ngồi dưới cây thầu dầu eraṇḍa, bị các sinh vật khác ăn cho đến khi chỉ còn bộ xương, rồi bị bỏ lại. Vị Bà-la-môn lại thấy chính các vương tử ấy với hình tướng đó, lặp lại hành vi ăn thịt chúng sinh như vậy.
Rồi lại thấy một số vương tử khác, cưỡi xe trâu kéo, được trang hoàng bằng hoa lài sumanā, đang đi về hướng nam theo con đường xấu.
Khi ấy, các vị chúa trời như Thiên Đế Śakra, Phạm Thiên brahma và các Hộ Thế Thiên Vương hiện đến và bảo với vị Bà-la-môn rằng:
Thưa vị Bà-la-môn, hãy chia các đóa sen này ra. Sau khi chia, trước tiên, hãy trao một đoá sen cho nhà vu. Kế đến, hãy trao mỗi vương tử một đoá. Số còn lại thì hãy trao cho các vị tiểu vương và cho dân chúng.
Nghe xong lời ấy, vị Bà-la-môn liền thưa rằng: “Con xin vâng theo lời chỉ dạy của chư thiên”.
Lúc bấy giờ, vị Bà-la-môn ấy, đang phân phát hoa sen, liền tỉnh dậy. Trong khi đang suy nghĩ, ông ấy đứng dậy khỏi chỗ ngồi, rồi lại tiếp tục suy nghĩ như sau:
Lời phát nguyện của vị Chuyển Luân Thánh Vương này là hạ liệt, ông ấy vui thích trong các lạc thú của luân hồi, vui thích trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, và ý nguyện cũng hạ liệt, cùng với một số vương tử cũng như vậy.
Lại có những vương tử khác mong cầu thừa Thanh Văn, là những người mà ta đã thấy cưỡi xe do trâu cái kéo, được trang hoàng bằng hoa lài sumanā, đi về phương Nam.
Và việc ta đã phát khởi đại tế đàn vì lợi ích cho tất cả chúng sinh. Và việc ta trong suốt 300 năm, đã đi khắp cõi Diêm-phù-đề, giúp tất cả chúng sinh được thiết lập vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như vậy, ta đã nhiếp thọ, đầu tư và thiết lập vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ sinh linh trên toàn cõi Diêm-phù-đề vào ba pháp tích lũy phước đức. Vì lý do ấy, nên ta trong giấc mộng đã thấy ánh sáng lớn và thấy các đức Phật Thế Tôn trong mười phương.
Và ta, đi khắp Diêm-phù-đề, khất thực từ phụ nữ, nam giới, bé trai, bé gái, đã nhiếp phục, đầu tư và thiết lập vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ sinh mệnh vào ba pháp quy y. Và việc ta đã thỉnh mời đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác trong suốt 7 năm, cùng với toàn thể Tăng đoàn Tỳ-kheo và cung cấp đầy đủ các vật dụng. Do đó, từ các cõi Phật khác nhau trong mười phương,các đức Phật Thế Tôn đã gửi đến những đóa hoa sen padmā cho ta.
Và do ta đã phát nguyện hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên các đức Phật ấy đã ban rải những tán lọng được tạo thành từ bảy báu. Và hơn nữa, trong các đóa sen ấy, ta đã thấy hình tượng mặt trời. Và ta đã thấy các tia sáng đang đi vào miệng của ta. Và ta đã thấy thân tướng của ta trở nên rất lớn. Và ta đã thấy chuỗi liên hoàn các hình mặt trời. Và trong bụng ấy, ta thấy hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ Bồ Tát, đang ngồi kiết già trên các hoa sen, và đang nhập thiền định.
Chính những điều trong giấc mộng như thế này đã được ta thấy.
Và ta đã thấy Thiên Đế Śakra, Phạm Thiên brahma và các vị Hộ Thế Thiên Vương lokapāla, họ khuyên ta rằng: “Hãy phân chia những đóa hoa sen này.” Và ta đã phân chia và trao tặng những đóa sen ấy.
Vậy thì, ta nên trình bày những gì đã thấy trong giấc mộng này cho đức Phật Thế Tôn. Những điều trong giấc mộng như vậy ta đã thấy, là do nguyên nhân nào? Và do duyên cớ nào? Vậy thì, ta nên thưa hỏi đức Như Lai chăng?
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, khi đêm ấy vừa trôi qua, đã chuẩn bị sẵn thức ăn, và vào buổi sáng, liền đến chỗ đức Thế Tôn. Đến gần, chính ông ấy dâng nước rửa tay cho đức Thế Tôn, và cho cả Tăng đoàn Tỳ Kheo. Sau khi dâng nước rửa tay, với nhiều thức ăn cứng và mềm, chính tay ông ấy dâng cúng và mời thọ thực. Sau khi đã dâng cúng và mời thọ thực đức Thế Tôn, ông ấy lại dâng cúng và mời thọ thực Tăng đoàn Tỳ Kheo nhiều lần. Khi biết rằng đức Thế Tôn và Tăng đoàn Tỳ Kheo đã rửa tay và cất bát, ông ấy lấy một chỗ ngồi thấp, ngồi trước đức Thế Tôn để lắng nghe chánh pháp.
Lúc bấy giờ, vua Araṇemi cũng đến nơi ấy, cùng với 1.000 vương tử, và vô số sinh chúng khác, được vây quanh và dẫn đầu. Vị vua ấy, cho đến khi tới nơi có thể đi được bằng xe, thì đã đi bằng xe, rồi xuống xe, đi bộ vào khu rừng. Vào trong rồi, vị vua ấy tiến đến chỗ đức Thế Tôn. Đến gần, vị vua ấy cúi đầu đảnh lễ nơi chân của đức Thế Tôn, và của Tăng đoàn Tỳ Kheo, rồi ngồi trước đức Thế Tôn để lắng nghe chánh pháp.
Lúc bấy giờ, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử trình bày các điều đã thấy trong giấc mộng cho đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn nói rằng:
Thưa cha Bà-la-môn, việc cha đã thấy một ánh sáng lớn, và với ánh sáng ấy, cha đã thấy các đức Phật Thế Tôn ở trong các cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, và họ đang tặng các đóa hoa sen cho cha. Và trong những đóa sen ấy, cha đã thấy hình tượng mặt trời, các tia sáng tỏa ra, và chính những tia sáng ấy đi vào trong miệng cha.
Thưa cha Bà-la-môn, việc cha đã đi khắp cõi Diêm-phù-đề trong suốt 300 năm, chính vì vậy, vô số chúng sinh đã vượt khỏi sự đếm tính, đã được cha đặt vào và thiết lập vào ba pháp tích lũy phước đức. Vô số chúng sinh vượt ngoài khả năng đếm tính cũng đã được cha dẫn dắt, đặt vào và thiết lập vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và việc cha đã phát khởi đại tế đàn vì lợi ích tất cả chúng sinh, do đó, thưa cha Bà-la-môn, các đức Phật Thế Tôn sẽ thọ ký cho cha về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các Ngài ấy, đang trú, đang hiện hữu, đang hoạt động và đang thuyết pháp trong mười phương, ở các thế giới nhiều như số cát sông Hằng. Và các đóa sen mà các đức Phật cho ông có cánh bằng vàng, cuống bằng bạc, nhụy giữa bằng lưu ly, và nhị sen bằng đá quý. Trong tất cả các đóa sen ấy, đều thấy hình tượng mặt trời.
Đây chính là điềm lành báo trước cho giấc mộng ấy.
Thưa cha Bà-la-môn, việc cha đã thấy trong giấc mộng rằng, các đức Phật Thế Tôn đang trú, đang hiện hữu, đang hoạt động và thuyết pháp trong mười phương, tại các thế giới nhiều như số cát sông Hằng. Trong đêm, khi cha trở thành một đức Phật Thế Tôn, các tán lọng được tạo bằng bảy báu sẽ được ban rải. Những tán lọng ấy, ở trên không trung, sẽ an trụ cho đến tận cõi trời Phạm Thiên. Trong chính đêm ấy, thưa cha Bà-la-môn, cha sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng trong đêm ấy, sẽ vang lên thanh danh thù thắng trong mười phương, tại các thế giới nhiều như số cát sông Hằng. Và phía trên, cho đến tận cõi trời Phạm Thiên, chư Thiên kể cả Phạm Thiên cũng không thể nhìn thấy được đỉnh đầu của cha.
Đây chính là điềm lành báo trước cho giấc mộng ấy.
Thưa cha Bà-la-môn, việc cha đã thấy thân mình trở nên to lớn, cao đến tận cõi trời Phạm Thiên, và việc cha thấy chuỗi các vòng tròn mặt trời kết trên đỉnh đầu của mình, thì chính là do, những chúng sinh vượt ngoài đếm tính đã được cha dẫn dắt vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Và những chúng sinh ấy, vào thời điểm khi cha thành tựu Tỉnh Thức Toàn Giác, thưa cha Bà-la-môn, họ đang an trú trong mười phương tại các thế giới nhiều như số hạt hạ lượng tử trong cõi Phật, đã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trước cha. Và tất cả những ai đã được cha dẫn dắt vào đạo giác ngộ, thì họ sẽ thường xuyên sẽ xướng danh của cha như sau:
“Nhờ vị Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác này, chúng ta đã lần đầu tiên được dẫn dắt vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhờ Ngài mà nay chúng ta đã thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và Ngài là thiện tri thức của chúng ta.”
Những đức Phật Thế Tôn ấy sẽ phái đi các vị Bồ Tát để làm các hành động cúng dường cho cha. Khi ấy, các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát, sẽ thực hiện các loại thần biến của Bồ Tát, và thực hành cúng dường cha. Tại nơi ấy, sau khi lắng nghe chánh pháp từ cha, họ sẽ đạt được nhiều loại chánh định samādhi, các sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, và cả pháp Nhẫn kṣānti. Các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát ấy, khi trở về từng cõi Phật riêng của mình, sẽ xướng danh cha, và tuyên truyền thanh danh ấy.
Thưa cha Bà-la-môn, đây chính là điềm lành báo trước của giấc mộng ấy.
Thưa cha Bà-la-môn, việc cha đã thấy trong mộng có hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ Bồ Tát, họ đã đi vào bụng của cha, rồi ngồi kiết già trên các hoa sen, và đang nhập thiền định. Và sau khi cha, thưa cha Bà-la-môn, đã thành tựu Tỉnh Thức Toàn Giác, cha sẽ dẫn dắt vô số chúng sinh với số lượng hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ – vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và sẽ thiết lập họ vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, khiến họ trở thành bậc bất thoái chuyển.
Những vị ấy, sau khi cha đã nhập Niết-bàn, thưa cha Bà-la-môn, với Vô Thượng Niết-bàn, họ sẽ hiện diện trong các kiếp tại các cõi Phật khác trong mười phương, nơi các thế giới có số lượng nhiều như số hạt hạ lượng tử trong cõi Phật. Các đức Phật Thế Tôn ấy, khi thiết lập vương quốc chánh pháp, sẽ tuyên thuyết danh hiệu của cha như sau:
“Cách nay vô lượng vô biên a-sam-khê kiếp quá khứ, đã xuất hiện một đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác có danh hiệu như vầy. Nhờ đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, chúng ta đã được dẫn dắt, được giáo hóa, được đặt vào, an lập, và được thiết lập trở thành bậc bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhờ Ngài, nay chúng ta đã thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và đã đạt được vương quốc của chánh pháp.”
Thưa cha Bà-la-môn, đây chính là điềm lành của giấc mộng ấy.
Thưa cha Bà-la-môn, việc cha đã thấy trong mộng, một kẻ có mặt lợn, rồi đến mặt chó, thân thể đẫm máu, sau khi ăn thịt nhiều loài chúng sinh khác nhau, ngồi dưới gốc cây thầu dầu eraṇḍa héo úa, và hắn lại bị các loài chúng sinh khác nhau ăn thịt, cho đến khi chỉ còn lại xương cốt chất đống. Rồi thân thể ấy được làm đầy trở lại, nhuộm đầy máu, rồi với bộ mặt chó, ăn thịt nhiều loại chúng sinh khác, lại ngồi dưới gốc của cây thầu dầu iraṇḍa thấp kém, rồi bị các loài chúng sinh khác nhau ăn thịt.
Những người ấy, là hạng người si mê, đã được cha dẫn dắt và đặt vào ba loại pháp tích lũy phước đức: là bố thí (dāna), giới luật (yama), và điều phục (saṃyama).
Họ trong cõi trời lại sợ sự đau khổ do đọa lạc từ thiên giới. Ở cõi người, họ chịu các khổ đau: già, bệnh, chết, gặp gỡ điều không ưa, xa lìa điều mình yêu quý. Ở cõi ngạ quỷ, là khổ đau vì đói khát. Ở loài súc sinh, là khổ đau do ăn nuốt lẫn nhau. Ở địa ngục, là các loại khổ đau do thiêu đốt, chặt chém, giết hại, trói buộc và muôn vàn hình phạt khác mà họ lại mong cầu.
Dù được thiết lập trong ba pháp tích lũy phước đức, nhưng họ vẫn mong cầu ngôi vua cõi trời nếu sinh lên trời, và mong cầu sự thống trị một châu lớn nếu sinh làm người. Những chúng sinh ấy, ở nơi đó, trở thành đối tượng tiêu dùng cho tất cả chúng sinh khác, và chính họ cũng phải chịu sự tiêu dùng của những chúng sinh khác.
Như vậy, tất cả những người si mê ấy, mặc dù được cha thiết lập vào ba loại pháp tích lũy phước đức, nhưng rồi sẽ chỉ là những kẻ phụng sự, và ca ngợi cha.
Thưa cha Bà-la-môn, đây là điềm báo trước của giấc mộng ấy.
Thưa cha Bà-la-môn, việc cha đã thấy trong giấc mộng, có những người cưỡi xe trâu, đầu đội vòng hoa sumanā, đi về hướng Nam theo con nhỏ xấu. Những người ấy là các thiện gia nam tử, và thiện gia nữ tử, cũng đã được cha, thưa cha Bà-la-môn, thiết lập vào ba pháp tích lũy phước đức, nhưng chỉ vì mục đích điều phục tự thân, để tự an, và đã khởi hành theo con đường Thanh Văn thừa.
Thưa cha Bà-la-môn, và đây chính là điềm lành báo trước của các chúng sinh cá biệt ấy – những người đã khởi hành theo Thanh Văn thừa.
Cách khuyến khích và dẫn dắt vua Araṇemi và tất cả các vương tử phát tâm Tỉnh Thức
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử thưa với vua Araṇemi rằng:
Khó được thay, thưa Đại vương, là thân người. Khó được thay là sự gặp gỡ đúng thời chỉ trong khoảnh khắc kṣa-ṇa. Khó được thay là sự xuất hiện ở đời của các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, hiếm như hoa cây sung udumbara. Khó được thay là tâm ưa thích nơi thiện pháp. Khó được thay là nguyện chơn chánh.
Sự làm vua cõi trời, thưa Đại vương, là thực tế sinh ra khổ đau. Sự làm vua một châu ở cõi người, thưa Đại vương, cũng là thực tế sinh ra khổ đau. Sự làm vua hai, ba hoặc bốn châu cũng là thực tế sinh ra khổ đau.
Thưa Đại vương, khổ đau của luân hồi, trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, phải chịu đựng thật lâu dài.
Thưa Đại vương, sự thịnh vượng của cõi trời và cõi người là vô thường, hoàn toàn không cố định, và mau biến đổi như gió mạnh. Như trăng in đáy nước, kẻ ngu si không bao giờ thỏa mãn với năm dục lạc, say đắm trong các đối tượng, và mong cầu sự giàu sang của cõi trời và cõi người. Những kẻ ngu ấy hết lần này đến lần khác phải chịu khổ đau ở địa ngục do các nguyên nhân. Ở loài súc sinh là khổ đau do si mê. Ở loài ngạ quỷ là khổ đau vì đói khát. Ở cõi người là khổ đau vì xa lìa người thân yêu. Ở cõi trời là khổ đau do bị đọa xuống. Rồi lại khổ đau vì ở trong bào thai, khổ đau vì bị đập vỡ đầu lẫn nhau, khổ đau vì ăn nuốt lẫn nhau. Như thế trôi lăn mãi, kẻ ngu si cứ chịu khổ đau.
Vì sao vậy?
Vì không có thiện tri thức, nên họ không phát khởi được nguyện chơn chánh. Họ không nỗ lực để đạt được điều chưa đạt, không nỗ lực để hiểu được điều chưa hiểu, và không nỗ lực để chứng đạt điều chưa chứng đạt. Như vậy, những kẻ ngu si lại phiền não với tâm Tỉnh thức, trong khi đó chính nơi ấy là chỗ mà mọi khổ đau đều được diệt tận. Còn đối với luân hồi, trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, vốn là nơi khổ đau sinh ra liên tục hết lần này đến lần khác, thì họ lại không phiền não, cũng không ghê sợ.
Thưa Đại vương, hãy quán sát rằng luân hồi, trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, chính là chỗ chứa nhóm của tất cả khổ đau.
Vì vậy, thưa Đại vương, đại vương đã thành tựu địa vị trong giáo pháp của đức Thế Tôn, đã gieo trồng thiện căn, đã phát khởi niềm tin thanh tịnh nơi Tam Bảo, đã thực hành bố thí cúng dường đức Thế Tôn để được giàu có lớn, đã giữ gìn giới luật để được tái sinh lên cõi trời, đã nghe chánh pháp trực tiếp từ đức Thế Tôn, để đạt được pháp tuệ giác prajñā vĩ đại. Những điều ấy chắc chắn đại vương sẽ thành tựu.
Thưa Đại vương, đại vương đã tế đàn cúng dường, hãy phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vua nói:
Thôi đủ rồi, này Bà-la-môn, ta không mong cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì ta ưa thích trong luân hồi.
Bởi vì, này Đại Bà-la-môn, những việc bố thí, trì giới, và nghe pháp là dành cho đời sống riêng hạnh phúc của ta, còn dành cho Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì thật là khó được, này Bà-la-môn.
Lần thứ hai, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử thưa với đức vua rằng:
Thưa Đại vương, con đường Tỉnh thức là thanh tịnh thuần khiết. Bằng tâm nguyện, phải thực hiện lời phát nguyện. Khi đầy đủ và nhuần nhuyễn, con đường Tỉnh Thức ấy được thanh tịnh nhờ tâm nguyện thù thắng.
Con đường Tỉnh Thức là ngay thẳng, không quanh co giả dối.
Con đường Tỉnh Thức là thanh tịnh, vì đoạn trừ dòng chảy phiền não.
Con đường Tỉnh Thức là rộng lớn, vì không bị che lấp.
Con đường Tỉnh Thức là nơi hội họp bình đẳng cho sự quán sát tư duy.
Con đường Tỉnh Thức không sợ hãi vì hoàn toàn không làm điều ác.
Con đường Tỉnh Thức là nhu hòa nhờ lối sống bố thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia (dāna-pāramitayā).
Con đường Tỉnh Thức là mát mẻ an lành nhờ lối sống giữ giới Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia (śīla-pāramitayā).
Con đường Tỉnh Thức là không nương tựa vào bất kỳ đối tượng nào nhờ lối sống nhẫn nhục Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia (kṣānti-pāramitayā).
Con đường Tỉnh Thức là lấy sự kiên cố gia trì làm chỗ dựa nhờ lối sống tinh tấn Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia (vīrya-pāramitayā).
Con đường Tỉnh Thức là không vẩn đục nhờ lối sống thiền định Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia (dhyāna-pāramitayā).
Con đường Tỉnh Thức là thông đạt sáng tỏ nhờ lối sống tuệ giác Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia (prajñā-pāramitayā).
Con đường Tỉnh Thức là thấm nhuần thanh tịnh và hoan hỷ nhờ Đại Từ.
Con đường Tỉnh Thức là đi cùng với trí tuệ hiện hữu của chính mình (svabhāva-jñāna) nhờ Đại Bi.
Con đường Tỉnh Thức là luôn an vui nhờ Đại Hỷ.
Con đường Tỉnh Thức là không nhiễm ô nhờ tâm Xả.
Con đường Tỉnh Thức là đã loại bỏ mọi gai góc là các ý nghĩ tham dục (kāma), sân hận (vyāpāda) và tổn hại (vihiṃsā).
Con đường Tỉnh Thức là dẫn đến sự an ổn nhờ tâm không bị chướng ngại.
Con đường Tỉnh Thức là không có sự gian tà, vì thấu rõ các pháp ngoại cảnh: là sắc (rūpa), thanh (śabda), hương (gandha), vị (rasa), xúc (sparśa).
Con đường Tỉnh Thức ấy đã diệt trừ mọi kẻ đối địch là ma chướng, vì đã thấu triệt các giới (dhātu) và xứ (āyatana).
Con đường Tỉnh Thức là sự tỉnh thức sáng tỏ vì đã phá tan bóng tối của vô minh.
Con đường Tỉnh Thức là sự tiến bước với tâm, sức mạnh và tinh tấn kiên cố, vì đã lìa mọi tâm niệm hướng về Thanh Văn và Độc Giác Phật.
Con đường Tỉnh Thức là được nâng đỡ vì được tất cả chư Như Lai gia trì.
Con đường Tỉnh Thức là chỗ thành tựu ngọc quý lớn vì thuận hợp với ngọc quý Trí Toàn Tri (sarvajñatā-ratna).
Con đường Tỉnh Thức là luôn được hiển bày bởi trí tuệ không dính mắc (asaṅga-jñānasya) của đức Thế Tôn.
Con đường Tỉnh Thức là được tu tập theo lời dạy gieo trồng thiện căn, vì được tất cả các đức Như Lai nhiếp thọ.
Con đường Tỉnh Thức là lìa mọi thuận hợp với phiền não xấu ác, bất thiện, hư hoại, vì đã dứt bỏ mọi ve vuốt, xu hướng chiều theo, và chống đối, sân hận, phản kháng.
Con đường Tỉnh Thức là đã dẹp sạch bụi nhơ, vì đã trừ bỏ mọi sân hận và toàn bộ cơn giận dữ.
Con đường Tỉnh Thức là hướng đến nẻo lành, vì đã xa lìa mọi điều bất thiện.
Thưa Đại vương, con đường hướng đến Tỉnh thức là con đường an ổn, kết thúc bằng Niết-bàn, trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối. Thưa Đại vương, hãy phát khởi tâm Tỉnh thức.
Nhà vua nói rằng:
Này Bà-la-môn, đức Như Lai xuất hiện trong thế gian nơi chúng sinh sống đến 80.000 năm. Nhưng đức Như Lai không thể dập tắt tất cả điều ác.
Những chúng sinh nào đã gieo trồng thiện căn), thì những chúng sinh ấy đã an trú trong quả vị. Có những vị đã thành tựu các chánh định samādhi, sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī, và các nhẫn kṣānti. Còn những chúng sinh nào có thiện căn thù thắng, thì họ đã trở thành bậc bất thoái chuyển đối với đạo giác ngộ. Có những chúng sinh đã gieo trồng thiện căn nên đang hưởng sự giàu sang ở cõi trời và cõi người.
Các chúng sinh trôi lăn theo nghiệp thiện và ác riêng của mình. Những chúng sinh nào được đức Thế Tôn giáo hóa, thì ngay cả đối với một chúng sinh ấy cũng chưa thể hoàn toàn dứt khổ đau. Chỉ đơn thuần, đức Thế Tôn là chỗ nương tựa cho cõi ấy thôi. Ngài không giải thoát khổ đau cho những chúng sinh chưa gieo trồng thiện căn.
Những gì mà đức Phật Thế Tôn hiện nay, sau khi thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chưa làm, thì ta nay phát nguyện sẽ thực hiện hoàn thiện tất cả việc ấy. Ta sẽ phát khởi tâm Tỉnh thức, thực hành đời sống của Bồ Tát (bodhisattva-caryām - Hạnh Bồ Tát), ta sẽ giáo hóa chúng sinh bằng sự thâm nhập các cửa pháp rộng lớn, không thể nghĩ bàn, cùng với sự tích tụ trí tuệ lớn, và sẽ thực hiện các Phật sự. Ta sẽ không chỉ hồi hướng tâm đến giác ngộ trong cõi Phật ô nhiễm này, mà ta sẽ phát tâm cõi Phật thanh tịnh và rộng lớn hơn nữa. Nếu ta được một cõi Phật như vậy, ta sẽ phát khởi tâm Tỉnh thức. Khi ấy, ta sẽ tu hành đời sống Bồ Tát, và khi ta chứng đạt Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ta sẽ làm tiêu trừ tất cả khổ đau của chúng sinh trong cõi Phật ấy.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đã tu tập thành tựu thần thông như vậy, và nhập vào chánh định samādhi tên là “Tấm Gương Trang Nghiêm” (tad-ādarśa-vyūhaṃ).
Khi đức Thế Tôn đã an trú chánh định samādhi trong “Tấm Gương Trang Nghiêm Như Gương”, thì đã hiện ra một ánh sáng. Với ánh sáng ấy, trong mười phương, ở mỗi một phương, các thế giới nhiều như số hạt hạ lượng tử của 1.000 cõi Phật đều được thấy, tất cả đều trang nghiêm công đức. Có những đức Phật Thế Tôn đã nhập Niết-bàn, và có những vị Phật đang ở giai đoạn chuẩn bị nhập Niết-bàn. Có thế giới, các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ngồi dưới cội cây giác ngộ đang chiến thắng ma quân. Có thế giới, có những vị mới thành Chánh Giác đang chuyển bánh xe chánh pháp. Có thế giới, có những vị vừa mới chuyển bánh xe chánh pháp và đang thuyết pháp. Ở nơi đó, có những cõi Phật hiển bày rõ ràng của chư Phật và Bồ Tát. Ở nơi đó, có những cõi không có sự xuất hiện của hàng Thanh Văn và Độc Giác Phật, và cũng có những cõi có sự xuất hiện của Thanh Văn và Độc Giác Phật. Và có những cõi Phật trống vắng cả Phật, Bồ Tát, Thanh Văn và Độc Giác Phật. Có những cõi Phật bị nhiễm ô bởi năm trược, và có những cõi hoàn toàn thanh tịnh, lìa khỏi năm trược. Có những cõi có chúng sinh thù thắng, có cõi có chúng sinh thấp kém, có cõi chúng sinh sống lâu, có cõi chúng sinh sống ngắn. Có những cõi Phật bị hủy diệt bởi lửa, có những cõi bị huỷ diệt bởi nước, có những cõi bị huỷ diệt bởi gió. Có cõi đang biến đổi và hình thành, có cõi đã xoay chuyển xong và vẫn an trụ. Tất cả những cõi ấy nhờ ánh sáng thù thắng mà được thấy rõ ràng.
Khi đại chúng hội họp đầy đủ thấy các trang nghiêm công đức trong các cõi Phật, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, lại một lần nữa, thưa với đức vua rằng:
Hãy xem, thưa Đại vương, những sự trang nghiêm công đức của các cõi Phật. Đại vương hãy phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và hãy chọn lấy cõi Phật đúng như Ngài mong cầu.
Lúc bấy giờ, vua Araṇemi hướng về đức Thế Tôn, chắp tay, thưa với đức Thế Tôn rằng:
Thưa đức Thế Tôn, do nghiệp nào mà một vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát, thọ nhận cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh, và do nghiệp nào mà thọ nhận cõi không thanh tịnh? Các chúng sinh thù thắng là do nghiệp nào, và thế nào là chúng sinh có thọ mạng dài, xin Ngài hãy giảng rộng?
Đức Thế Tôn nói:
Do sức của lời nguyện, thưa Đại vương, một vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát thọ nhận cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh đã lìa năm ô trược; cũng do lời nguyện mà thọ nhận cõi không thanh tịnh.
Nhà vua thưa:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, con sẽ vào thành, ngồi yên một chỗ, suy nghĩ về lời nguyện; con ưa thích một cõi Phật đã lìa năm ô trược, và con sẽ hoàn toàn hồi hướng các lối sống tốt đẹp về đó.
Đức Thế Tôn nói:
Thưa Đại vương, hãy làm vào thời gian mà Ngài cho là thích hợp.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vua Araṇemi, đảnh lễ nơi chân đức Thế Tôn, và Tăng đoàn Tỳ Kheo, rồi ba lần đi nhiễu theo chiều bên phải, và rời khỏi chỗ của đức Thế Tôn. Vào thành, tại nhà mình, nhà vua ngồi yên chỉ với một tâm duy nhất, thu nhiếp và suy nghĩ về sự trang nghiêm lời nguyện kiến lập cõi Phật.
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử khuyến thỉnh người con trưởng của vua là Animiṣa như sau:
Thưa Thái tử Animiṣa, Ngài hãy phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và tất cả phước đức mà Ngài đã tích lũy khi thực hành các việc lành qua ba pháp tích lũy phước đức, thì hãy hồi hướng tất cả về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thái tử nói rằng:
Ta cũng vậy, thưa quốc sư, sẽ về nhà mình, ở một mình, ẩn cư, ngồi xuống và suy nghĩ về sự trang nghiêm công đức của cõi Phật. Nếu tâm giác ngộ được phát khởi, ta sẽ trở lại trước mặt đức Thế Tôn để hồi hướng về tâm Tỉnh Thức.
Rồi, vị Thái tử ấy đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn bằng trán, và đảnh lễ Tăng đoàn Tỳ Kheo, rồi ba lần nhiễu quanh theo chiều bên phải, và rời khỏi chỗ của đức Thế Tôn. Về đến nơi cư trú của mình, ông ở một mình, ẩn cư, ngồi xuống và suy nghĩ về sự trang nghiêm công đức của cõi Phật.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, vị đại thần tư tế tối cao, mời vương tử thứ hai và nói rằng:
“Thưa vương tử, hãy phát khởi tâm Tỉnh Thức.” rồi giảng giải chi tiết như trên, cho đến phần lược thuật.
Cứ như thế, ông đã dẫn dắt toàn bộ 1.000 vương tử vào đường Tỉnh Thức. Và đã dẫn dắt 84.000 quốc vương chư hầu, cùng với 900 triệu chúng sinh khác vào đường Tỉnh Thức.
Tất cả họ đều nói: “Chúng ta cũng sẽ về nhà của mỗi người, ngồi một mình để suy nghĩ về sự trang nghiêm công đức của cõi Phật.”
Nói như vậy xong, tất cả họ đều về nhà mình, ngồi một mình, và trong bảy năm đã suy nghĩ về các lời nguyện trang nghiêm công đức của cõi Phật.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, vào một thời điểm khác, khởi lên một ý nghĩ như sau:
Ta quả thật đã dẫn dắt vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ sinh linh vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và đức Phật Thế Tôn này đã được ta thỉnh mời trong suốt bảy năm, với đầy đủ mọi sự cúng dường, cùng với vô lượng Tỳ Kheo trong Tăng đoàn. Nếu nguyện vọng của ta về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được hoàn toàn viên mãn, và lời nguyện này thành tựu, thì ta sẽ dẫn dắt chư Thiên, A-tu-la, Gandharva, Dạ-xoa, quỷ thần rākṣasa, và các loài quỷ kumbhāṇḍa cùng tham dự đại tế đàn này.
Cách khuyến khích và kêu gọi sự ủng hộ của Vaiśravaṇa - Đa Văn Thiên Vương, cùng hội chúng thần Dạ Xoa và quỷ thần rākṣasa
Lúc ấy, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, vị đại thần tư tế tối cao, mong muốn được gặp vaiśravaṇa - Đa Văn Thiên Vương (Tỳ Sa Môn Thiên Vương).
Bấy giờ, Đa Văn Thiên vương, được vây quanh và dẫn đầu bởi vô số trăm ngàn Dạ-xoa, đã đi đến chỗ của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử.
Đến gần, đứng trước mặt của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, và nói rằng: “Thưa Bà-la-môn, vì điều gì mà Ngài mong cầu nơi ta?”
Bà-la-môn hỏi: “Ngài là ai?”
Đa Văn Thiên Vương đáp:
Ngài đã từng nghe, thưa Bà-la-môn, rằng có vị chúa của Dạ-xoa tên là Vaiśravaṇa - Đa Văn Thiên Vương chăng? Ta chính là người đó. Thưa Bà-la-môn, Ngài muốn sai bảo điều gì? Và muốn ta làm gì?
Bà-la-môn nói:
Hãy lắng nghe, này chúa của Dạ-xoa, ta sẽ thực hiện lễ cúng dường đức Thế Tôn; ông hãy khởi tâm sốt sắng đối với việc này.
Đa Văn Thiên Vương nói:
Nguyện mong như vậy, đúng như điều Ngài mong muốn, thưa Bà-la-môn.
Bà-la-môn nói:
Vậy thì, thưa Đại vương, ông hãy khuyến khích các Dạ-xoa theo lời của ta phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và lại một lần nữa hãy khuyến khích với họ rằng: ‘Nếu mọi người, này các Dạ-xoa, mong cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì hãy đi, hãy mang về từ bên kia của biển lớn gỗ trầm hương Gośīrṣa, và những người khác hãy mang hương liệu để cúng dường đức Thế Tôn, và những người khác nữa hãy mang các loại hoa khác nhau, để cho mỗi ngày ta có thể thực hiện lễ cúng dường lên đức Thế Tôn.’
Khi ấy, Đa Văn Thiên Vương nói: “Thưa Bà-la-môn, Tôi sẽ làm đúng như lời Ngài đã dặn”. Đa Văn Thiên Vương, hứa khả với vị Bà-la-môn ấy, rồi ngay tại đó biến mất. Ngài đánh trống lệnh, tập hợp các Dạ-xoa và quỷ rākṣasā, rồi nói rằng:
Này chư vị, hãy biết rằng, tại cõi Diêm-phù-đề có một vị Bà-la-môn tên là Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, là đại thần tư tế tối cao của vua Araṇemi. Ông ấy sẽ phụng sự đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, cùng với Tăng đoàn Tỳ Kheo, trong bảy năm bằng tất cả vật được cúng dường. Vì vậy, mọi người hãy hoan hỷ tán thán công đức ấy, và hãy nhờ nhân duyên ấy mà phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, vào lúc ấy, vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ Dạ-xoa và quỷ thần rākṣasa chắp tay và nói:
Sự phát sinh dồi dào công đức và sự phát sinh dồi dào thiện căn của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, khi Ngài ấy phụng sự đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác trong bảy năm bằng tất cả vật được cúng dường, cùng với vô lượng Tăng đoàn Tỳ Kheo, thì tất cả chúng tôi đều hoan hỷ tán thán công đức ấy, và nhờ thiện căn ấy mà sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đa Văn Thiên Vương nói: “Này các vị, hãy lắng nghe. Ai trong các vị muốn nhờ thiện căn mà mong cầu phước đức, thì trong bảy năm, hãy mang về từ bên kia biển lớn gỗ trầm hương Gośīrṣa, để cho Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử chuẩn bị thực phẩm cúng dường đức Thế Tôn và Tăng đoàn Tỳ Kheo.
Khi ấy, 22.000 vị thần Dạ-xoa đồng thanh thưa:
Chúng ta, này các vị thần, trong bảy năm này sẽ mang về gỗ trầm hương Gośīrṣa, để cho Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử chuẩn bị thực phẩm cúng dường đức Thế Tôn và Tăng đoàn Tỳ Kheo.
46.000 vị thần Dạ-xoa nói: “Chúng tôi sẽ mang hương liệu.”
52.000 vị thần Dạ-xoa nói: “Chúng tôi sẽ mang các loại hoa tươi đẹp.”
22.000 vị thần Dạ-xoa nói: “Chúng tôi sẽ lấy tinh chất bổ dưỡng từ nhiều loại dược phẩm, để cúng dường đức Thế Tôn và Tăng đoàn Tỳ Kheo, và sẽ cho thêm tinh lực vào các món ăn và đồ uống đã được chuẩn bị.
70.000 vị thần Dạ-xoa nói: “Chúng ta, này các vị thần, sẽ chuẩn bị thực phẩm cúng dường đức Thế Tôn và Tăng đoàn Tỳ Kheo.”
Cách khuyến khích và kêu gọi sự ủng hộ của Virūḍhaka - Tăng Trưởng Thiên Vương, cùng hội chúng quỷ quỷ kumbhāṇḍa
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử mong muốn được gặp Virūḍhaka - Tăng Trưởng Thiên Vương.
Khi ấy, Tăng Trưởng Thiên Vương đi đến chỗ của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, đến gần, đứng trước mặt của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, và nói rằng: “Thưa Bà-la-môn, vì điều gì mà Ngài mong cầu nơi ta?”
Khi ấy, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử cũng khuyến thỉnh Tăng Trưởng Thiên Vương cùng hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ quỷ kumbhāṇḍa, chuẩn bị các phẩm vật để cúng dường đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, cùng Tăng Đoàn Tỳ Kheo, nhờ đó, khiến tất cả họ đều phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cách khuyến khích và kêu gọi sự ủng hộ của Virūpākṣa - Quảng Mục Thiên Vương và Dhṛtarāṣṭra - Trì Quốc Thiên vương, cùng hội chúng Rồng Thần và Nhạc Thần Gandharva
Cũng như vậy, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử đã khuyến khích Virūpākṣa - Quảng Mục Thiên Vương và Dhṛtarāṣṭra - Trì Quốc Thiên vương cùng vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ rồng và nhạc thần Gandharva, chuẩn bị các phẩm vật để cúng dường đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, nhờ đó, khiến họ phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, các vị Hộ Thế Thiên Vương của các hành tinh có sự sống với đầy đủ bốn châu thiên hạ khác trong cõi Phật ấy, nhờ oai lực của đức Phật, đã đến chỗ của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử. Vị Bà-la-môn cũng khuyến khích họ phát tâm. Họ, sau khi trở về hội chúng của mình, cũng khuyến khích mọi người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cho đến từ 3000 đại thiên thế giới này, có 1 tỷ vị Đa Văn Thiên Vương cùng hội chúng của họ được khuyến khích phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, 1 tỷ vị Tăng Trưởng Thiên Vương, 1 tỷ vị Quảng Mục Thiên Vương, và 1 tỷ vị Trì Quốc Thiên Vương, cùng hội chúng của họ cũng được khuyến khích phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cách khuyến khích và kêu gọi sự ủng hộ của 5 vị Thiên Chúa cõi Trời là Thiên Đế Śakra, Thiên Chúa Suyāma, Thiên Chúa Saṃtuṣita, Thiên Chúa Sunirmita, và Thiên Chúa Hoàn Toàn Tự Tại Biến Hoá Paranirmitavaśavartin
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử khởi lên ý nghĩ như sau:
Nếu ta sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và nguyện vọng của ta được viên mãn, và nếu lời nguyện của ta cũng được viên mãn, thì ta sẽ làm việc lợi ích cho hội chúng của Virūḍhaka - Tăng Trưởng Thiên Vương, sẽ phân phát các phẩm vật trong đại tế đàn này cho các chúng sinh ấy, và khuyến khích họ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nếu nhờ công đức này ta sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì hôm nay Thiên Đế Śakra, vua của chư Thiên, hãy đến để gặp ta. Và các vị Chúa trời thuộc cõi trời Suyāma, trời Saṃtuṣita, trời Sunirmita, và trời Hoàn Toàn Tự Tại Biến Hoá Paranirmitavaśavartin cũng hãy đến để gặp ta.
Ngay khi ý nguyện ấy khởi lên nơi thiện nam tử Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, Thiên Đế Śakra, vua của chư Thiên, liền đến để gặp. Và các vị Chúa trời Suyāma, trời Saṃtuṣita, trời Sunirmita và trời Paranirmitavaśavartin cũng đến gặp vị Bà-la-môn ấy.
Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử hỏi các vị ấy rằng: “Các vị đáng kính là ai?”
Năm vị Chúa cõi trời lần lượt xưng tên và dòng tộc của mình. Và họ nói: “Thưa Bà-la-môn, Ngài muốn chúng tôi làm gì? Chúng tôi cần phải cúng dường những vật dụng gì trong đại tế đàn này?
Bà-la-môn nói:
Những gì ở cõi trời của các vị là các bảo điện bằng châu báu thù thắng nhất, hoặc là cây báu, hoặc cây như ý, hoặc cây hương, hoặc cây hoa, hoặc cây trái, các y phục trời, tòa ngồi trời, các dụng cụ trời, các bình báu trời, các lọng, cờ, phướn, trang sức bằng báu, và các nhạc cụ trời — hãy dùng những vật ấy để trang nghiêm khắp cõi Diêm-phù-đề vì mục đích cúng dường đức Thế Tôn và Tăng đoàn Tỳ Kheo.
“Thưa Bà-la-môn, Tôi sẽ làm đúng như lời Ngài đã dặn”. Năm vị Chúa trời hứa khả với vị Bà-la-môn, rồi rời khỏi chỗ của ông, trở về cõi trời của mình.
Trở về rồi, họ mời các vị Thiên tử: như Veṭaka, Āveṭuka, Rohiṇa và Korabhananda, và nói rằng:
Hãy đi xuống, này mọi người, hãy xuống cõi Diêm-phù-đề và trang nghiêm rừng cây mận Jambū bằng sự trang trí đặc biệt như thế này, với các tòa ngồi như thế này được bày biện, giống hệt như cõi trời này đã được trang hoàng. Hãy xây dựng cho đức Thế Tôn một bảo điện mái nhọn kūṭāgāra bằng châu báu giống như thế này, y hệt bảo điện Ratna-niryūha này, này các vị!”
Năm vị Thiên tử hứa khả với các vị Chúa Trời, rồi xuống cõi Diêm-phù-đề và chỉ trong một đêm đã trang nghiêm xong toàn bộ rừng cây mận Jambū bằng sự trang trí như cây báu và cờ phướn. Một bảo điện kūṭāgāra như thế đã được dựng để cúng dường đức Thế Tôn, y hệt như bảo điện Ratna-niryūha của Thiên Đế Śakra, vua của chư Thiên, được hoàn thiện đầy đủ mọi phương diện.
Sau khi đã trang hoàng toàn bộ rừng cây mận Jambū bằng các trang trí cõi trời, họ đến chỗ các vị Chúa Trời và trình bày như sau:
Thưa Thiên Chúa, mong các Ngài hãy biết rằng, như cõi trời này ( đã được tự trang nghiêm, thì cũng như vậy, rừng cây mận Jambūvana đã được trang nghiêm bằng các loại trang trí cõi trời đặc biệt, hoàn thiện đầy đủ mọi phương diện, và một bảo điện kūṭāgāra toàn bằng châu báu như vậy đã được dựng để cúng dường đức Thế Tôn, y hệt như bảo điện Ratna-niryūha của Thiên Đế Śakra, vua của chư Thiên. Quả thật, thưa các vị Thiên Chúa, giữa cõi trời và rừng cây mận Jambūvana ở cõi Diêm-phù-đề không có bất kỳ sự khác biệt nào.
Bấy giờ, năm vị Thiên Chúa cõi trời gồm, Śakra, Suyāma, Saṃtuṣita, Sunirmita, Paranirmitavaśavartin, sau khi xuống cõi Diêm-phù-đề, đi đến chỗ của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, và nói rằng:
Rừng cây mận Jambūvana đã được trang nghiêm, thưa Bà-la-môn, vì mục đích cúng dường đức Thế Tôn và Tăng đoàn Tỳ Kheo. Chúng tôi còn cần phải làm gì nữa chăng?
nă
Sau khi nghe vậy, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử nói với 5 vị Thiên Chúa rằng:
Các Ngài là năm vị Thiên Chúa, cai trị riêng các cõi trời, và ở đó quyền lực của các Ngài được thực thi. Vậy hãy đi, thưa các vị Thiên Chúa, đến hội chúng trời của mỗi vị, rồi tập hợp họ lại ở cõi Diêm-phù-đề, đi đến để gặp đức Thế Tôn, đảnh lễ, cúng dường và hầu cận cùng với Tăng Đoàn Tỳ Kheo, và hãy lắng nghe chánh pháp trực tiếp từ nơi đức Thế Tôn.
Bấy giờ, 5 vị Thiên Chúa trở về các nơi ở của mình. Thiên Đế Śakra, vua của chư Thiên, tập hợp chư thiên cõi trời Ba Mươi Ba và nói như sau:
Này các vị, hãy biết rằng ở cõi Diêm-phù-đề có vị quan tư tế tối cao của vua Araṇemi tên là Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử. Ông ấy đã thỉnh mời đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai trong bảy năm với tất cả vật cúng dường, và cung thỉnh cùng với vô lượng Tăng đoàn Tỳ Kheo. Chúng ta cũng đã trang nghiêm toàn bộ vườn thượng uyển vì mục đích cúng dường đức Thế Tôn và Tăng đoàn. Vì vậy, các vị hãy hoan hỷ tán thán thiện căn, phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nhờ sự khuyến khích của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử.
Bấy giờ, vào lúc ấy, có rất nhiều hàng trăm triệu tỷ tỷ tỷ tỷ chư thiên cõi trời Ba Mươi Ba chắp tay và cất tiếng nói rằng:
Chúng ta, này các vị, hãy hoan hỷ tán thán công đức lớn như vậy, và với sự hoan hỷ này, mọi công đức mà chúng ta có được, tất cả chúng ta sẽ hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thiên Chúa Suyāma triệu tập chư thiên cõi trời yāmā và giảng rộng như trên, khuyến khích toàn bộ chư thiên phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thiên Chúa nirmāṇa-rati cõi trời tuṣita, Thiên Chúa cõi trời Hóa lạc paranirmita, và Thiên Chúa cõi trời Hoàn Toàn Tự Tại Biến Hoá paranirmitavaśavartīn cũng triệu tập chư thiên ở cõi trời của mình, và khuyến khích mọi người tuỳ hỷ công đức của vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử và phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Khi ấy, có vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ các vị Thiên tử chắp tay và nói rằng:
Chúng ta, này các vị, hãy hoan hỷ tán thán công đức lớn như vậy, và với sự hoan hỷ này, mọi công đức mà chúng ta có được, tất cả chúng ta sẽ hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì vậy, này các vị, chúng ta hãy đi xuống cõi Diêm-phù-đề để gặp đức Thế Tôn, đảnh lễ, cúng dường hầu cận, lắng nghe chánh pháp, và gặp gỡ Tăng Đoàn Tỳ Kheo.
Năm vị Thiên Chúa ấy, trong đêm, mỗi vị cùng với vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ sinh linh gồm cả thiên nữ và thiên đồng, xuống cõi Diêm-phù-đề, đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn bằng trán, và đảnh lễ Tăng Đoàn Tỳ Kheo, rồi nghe chánh pháp trực tiếp từ nơi đức Thế Tôn.
Chư thiên, ở giữa hư không, rải xuống lên đức Thế Tôn một trận mưa hoa gồm các loại hoa trời: như hoa sen xanh utpala, hoa sen đỏ padma, hoa súng kumuda, hoa sen trắng lớn ngàn cánh puṇḍarīka, hoa lài sumanā, hoa vārsikā, hoa atimukta, hoa ka, hoa campaka, hoa māndārava và hoa māndārava lớn. Và họ tấu lên các loại nhạc khí trời.
Cách khuyến khích và kêu gọi sự ủng hộ của các Vua A-tu-la và hội chúng A-tu-la
Lại nữa, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử khởi lên một ý nghĩ trong tâm như sau:
Nếu nguyện vọng của ta đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được viên mãn, thì lời nguyện này sẽ được thành tựu, đó là ta sẽ khuyến khích các A-tu-la hướng đến giác ngộ.
Ngay khi ý nghĩ ấy khởi lên, này thiện nam tử, năm vị vua A-tu-la liền đi đến chỗ của vị Bà-la-môn ấy. Sau khi đến gần, có vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ A-tu-la — gồm cả thiên nữ, thiên nam, đồng nam và đồng nữ, theo lời vị Bà-la-môn, đã phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Và họ đến gần chỗ của đức Thế Tôn để nghe chánh pháp, và dùng các thứ hoa và nhạc khí trời để cúng dường đức Thế Tôn.
Cách khuyến khích và kêu gọi sự ủng hộ của Ma Vương và hội chúng Ma
Như vậy, vị Bà-la-môn ấy mong muốn được gặp Ma vương. Bấy giờ vào lúc ấy, Ma vương tên là Pūrṇa đã đến. Có vô số hàng trăm triệu tỷ tỷ Ma quân thuộc thân quyến của Ma, cùng với các ma tử, gồm cả ma nữ, ma nam, ma đồng nam và ma đồng nữ — đã phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Rồi họ đến gần đức Thế Tôn để nghe pháp.
Cách khuyến khích và kêu gọi sự ủng hộ của Đại Phạm Thiên Vương và hội chúng Phạm Thiên
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, mong muốn gặp Đại Phạm Thiên Vương. Khi ấy Đại Phạm thiên Vương tên là Ketapuri, đã đến gần vị Bà-la-môn ấy.
Vị này từ cõi trời Phạm thiên, nhận lời của vị Bà-la-môn, cùng với hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ các Phạm Thiên tử phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Sau đó họ xuống để gặp đức Thế Tôn, đảnh lễ, cúng dường hầu cận cùng Tăng đoàn, và nghe pháp trực tiếp từ nơi đức Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, tại một hành tinh có sự sống đầy đủ bốn châu khác, mong muốn được gặp Thiên Đế Śakra, và các vị Thiên Chúa Suyāma, Saṃtuṣita, Sunirmita, Paranirmitavaśavartin. Năm vị Thiên Chúa ấy, nhờ oai lực của đức Thế Tôn đã đến chỗ của vị Bà-la-môn. Vị Bà-la-môn ấy đã giáo giới cho họ. Họ trở về cung điện của mình và khuyến khích hội chúng của mình theo lời dạy của vị Bà-la-môn.
Như vậy, có vô số hàng tỷ tỷ tỷ tỷ chư thiên cõi trời Ba Mươi Ba — gồm cả thiên nữ, thiên nam, đồng nam và đồng nữ, đã phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và họ, cùng với Thiên Đế Śakra, đã đến hành tinh thế giới bốn châu này để gặp đức Thế Tôn, đảnh lễ, cúng dường hầu cận, cùng Tăng Đoàn Tỳ Kheo, và nghe chánh pháp trực tiếp từ đức Thế Tôn.
Như vậy, các vị Thiên Chúa Suyāma, Saṃtuṣita, Sunirmita và Paranirmitavaśavartin đã khuyến khích chư thiên các cõi trời của mình hướng đến giác ngộ. Cùng với vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ chư thiên cõi trời Paranirmitavaśavartin, gồm cả thiên nữ, thiên nam, đồng nam và đồng nữ, đã phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đến hành tinh thế giới bốn châu này để gặp đức Thế Tôn, đảnh lễ, cúng dường và hầu cận cùng với Tăng Đoàn Tỳ Kheo, và nghe chánh pháp trực tiếp từ đức Thế Tôn.
Cũng như vậy, ở hành tinh thế giới bốn châu thứ hai có các vua A-tu-la vương, Ma vương và Phạm thiên Vương.
Cũng như vậy ở hành tinh thế giới bốn châu thứ ba, thứ tư và thứ năm, các vị Thiên Đế Śakra, Thiên Chúa Suyāma, Thiên Chúa Saṃtuṣita, Thiên Chúa Nirmāṇarati, Thiên Chúa Paranirmitavaśavartin, cùng A-tu-la vương, Ma vương, và Phạm thiên vương — nhờ oai lực của đức Phật — đã đến hành tinh thế giới bốn châu này, cùng với hội chúng của họ, để nghe chánh pháp trực tiếp từ đức Thế Tôn.
Như vậy, cho đến từ cõi Phật của 3000 đại thiên thế giới này, có 1 tỷ Thiên Đế Śakra, 1 tỷ Thiên Chúa Suyāma, 1 tỷ Thiên Chúa Saṃtuṣita, 1 tỷ Thiên Chúa Nirmāṇarati, 1 tỷ Thiên Chúa Paranirmitavaśavartin, 1 tỷ A-tu-la vương, 1 tỷ Ma vương, 1 tỷ Đại Phạm thiên Vương, mỗi vị Đại Phạm thiên được vây quanh và dẫn đầu bởi vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ chư thiên Phạm chúng đã phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhờ oai lực của đức Thế Tôn, họ đã đến thế giới hành tinh bốn châu này để gặp đức Thế Tôn, đến gần, đảnh lễ, cúng dường hầu cận cùng Tăng Đoàn Tỳ Kheo, và nghe chánh pháp trực tiếp từ đức Thế Tôn.
Và khi ấy, trong cõi thế giới của 3000 đại thiên thế giới này, không có một nơi nào trên mặt đất mà không chấn động.
Cách khuyến khích và dẫn dắt các chúng sinh trong địa ngục, quỷ đói và súc sinh phát khởi tâm Tỉnh Thức
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử khởi lên ý nghĩ như sau:
Nếu nguyện vọng của ta đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được viên mãn, thì cũng như vậy, 1 tỷ vị Vaiśravaṇa và 1 tỷ vị Đại Phạm thiên đi theo ta, cũng như vậy, đức Thế Tôn sẽ theo ta. Ngài sẽ làm một đại thần biến, khiến cho trong 3000 đại thiên thế giới này, tất cả loài người, súc sinh, cõi yāma và các chúng sinh trong địa ngục, tất cả khổ thọ của họ sẽ được dập tắt, và lạc thọ sẽ phát sinh. Và trước mặt của từng chúng sinh ấy sẽ hiện hữu một hóa thân Phật, vị ấy sẽ khuyến khích họ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, biết tâm niệm của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử bằng tâm mình. Ngay lúc ấy, Ngài nhập vào chánh định samādhi tên là “Sức Nóng” (pratāpa).
Khi đức Thế Tôn an trú tâm trong chánh định samādhi Sức Nóng, từ mỗi một lỗ chân lông trên thân phóng ra vô số tia sáng.
Và bởi những tia sáng ấy, toàn bộ 3000 đại thiên thế giới chấn động và sáng rực. Có những tia sáng đi đến địa ngục khiến cho các luồng gió ấm thổi đến các chúng sinh đang ở địa ngục lạnh (śīta-naraka). Những chúng sinh đang ở địa ngục nóng (uṣṇa-naraka), thì có những luồng gió mát lạnh thổi đến. Nhờ vậy, mọi khổ đau do đói, khát và nhọc nhằn của các chúng sinh trong địa ngục đều được dập tắt, và lạc thọ phát sinh. Và trước mặt mỗi một chúng sinh trong địa ngục có một hóa thân Phật đứng, với thân được trang nghiêm bởi 32 tướng đại nhân và được trang hoàng bằng 80 vẻ đẹp tùy hình hảo.
Lúc ấy, đối với các chúng sinh trong địa ngục đang được an trú trong niềm vui, khởi lên ý nghĩ: “Nguyên nhân là gì mà khổ đau của chúng ta đã dứt và niềm vui đã xuất hiện?”
Họ nhìn thấy đức Thế Tôn với thân được trang nghiêm bởi 32 tướng đại nhân, và rực rỡ với 80 vẻ đẹp tùy hình hảo. Khi nhìn thấy đức Phật, và họ nói rằng: “Nhờ oai lực của bậc Đại Bi, bậc Đại sĩ, mà chúng ta đã trở thành an lạc như thế này. Họ, khởi lên niềm hoan hỷ và an lạc, tâm trở nên thanh tịnh, nhìn ngắm đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn bảo họ rằng: “Lành thay, mọi người hãy nói lời ‘Con hoàn toàn quy mạng đức Phật Toàn Giác’, và hãy phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như vậy, mọi người sẽ không còn cảm thọ khổ sinh khởi, và sẽ mãi mãi được hưởng cảm thọ an lạc.
Họ nói rằng: “Con hoàn toàn quy mạng đức Phật Toàn Giác! Chúng con phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và nguyện cho thiện căn này của chúng con dẫn đến sự tiêu trừ chướng ngại của nghiệp.”
Sau đó, có những vị ở trong địa ngục, khi mệnh chung liền sinh vào hội chúng loài người.
Có những chúng sinh trong địa ngục bị thiêu đốt bởi lửa, thì các tia sáng ấy phóng ra những luồng gió mát. Những chúng sinh ấy, khi được chạm đến bởi gió mát, liền hết đói khát và trở nên không còn khổ đau. Khi thấy hoá thân của đức Phật và được đức Phật khuyến khích, các chúng sinh trong địa ngục nóng ấy đều nói rằng: “Con hoàn toàn quy mạng đức Phật Toàn Giác! Chúng con phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và nguyện cho thiện căn này của chúng con dẫn đến sự tiêu trừ chướng ngại của nghiệp.”
Sau đó, có những vị từ đó rời bỏ thân và sinh vào hội chúng loài người.
Lại nữa, có những chúng sinh đang sinh sống trong loài súc sinh, bị trói buộc bởi vô minh, ngu si, sợ hãi và sự thống trị của kẻ mạnh, tia sáng ấy chiếu đến thân họ, liền làm tan biến bóng tối mê lầm trong tâm trí họ. Nhờ ánh sáng ấy, tâm ý của các chúng sinh trong loài súc sinh được khai mở, trở nên an lạc và có thể tiếp nhận thiện căn. Khi thấy hoá thân của đức Phật và được đức Phật khuyến khích, các chúng sinh trong loài súc sinh ấy đều nói rằng: “Con hoàn toàn quy mạng đức Phật Toàn Giác! Chúng con phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và nguyện cho thiện căn này của chúng con dẫn đến sự tiêu trừ chướng ngại của nghiệp.”
Sau đó, có những vị từ đó rời bỏ thân và sinh vào hội chúng loài người.
Lại nữa, có những chúng sinh trong loài ngạ quỷ, chịu khổ vì đói khát, tia sáng ấy chiếu đến thân họ, làm cho họ không còn đói khát. Nhờ ánh sáng ấy, tâm ý của các chúng sinh trong loài ngạ quỷ được khai mở, trở nên an lạc và có thể tiếp nhận thiện căn. Khi thấy hoá thân của đức Phật và được đức Phật khuyến khích, các chúng sinh trong loài ngạ quỷ ấy đều nói rằng: “Con hoàn toàn quy mạng đức Phật Toàn Giác! Chúng con phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và nguyện cho thiện căn này của chúng con dẫn đến sự tiêu trừ chướng ngại của nghiệp.”
Sau đó, có những vị từ đó rời bỏ thân và sinh vào hội chúng loài người.
Và ánh sáng ấy, sau khi quay trở lại, nhiễu quanh đức Thế Tôn ba vòng, rồi nhập vào đỉnh đầu của đức Thế Tôn. Và khi chứng kiến đại thần biến ấy, có vô số chư thiên, loài người, Dạ-xoa, quỷ thần La-sát, Rồng và A-tu-la đã được an lập vào địa vị bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vô số chúng sinh cũng đã đạt được các chánh định samādhi, nhẫn kṣānti và sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī.
Những người là loài người ở cõi Diêm-phù-đề, khi nghe rằng tại kinh thành Mañjura, tại rừng cây mận Jambūvana đã được trang nghiêm bằng các thứ trang trí và trang sức thiên giới để cúng dường đức Thế Tôn và Tăng đoàn, liền nói: “Ước gì chúng ta được đến để chiêm ngưỡng, và tại đó được thấy đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai cùng với Tăng Đoàn Tỳ Kheo. Sau đó chúng ta sẽ được nghe chánh pháp trực tiếp từ đức Thế Tôn.
Bấy giờ, vào lúc ấy, mỗi ngày, có vô số chúng sinh là chư thiên và loài người, gồm cả nữ, nam, đồng nam và đồng nữ, số lượng lên tới hàng trăm ngàn triệu tỷ — đều đến thành Mañjura để gặp đức Thế Tôn, đến gần cúng dường, hầu cận cùng với Tăng Đoàn Tỳ Kheo, và để chiêm ngưỡng khu rừng ấy.
Và khu rừng ấy có 20.000 cổng, tất cả đều bằng bảy báu. Tại mỗi một cổng rừng đều có bố trí 500 tòa ngồi bằng châu báu. Và trên các tòa ấy có 500 thiếu niên ngồi. Những chúng sinh đến và vào khu rừng ấy, thì các thiếu niên ấy hướng dẫn họ các quy y đức Phật, cách quy y Pháp, và cách quy y chúng Tăng, khuyến khích họ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Những người đang ngồi và ở xa, thì sau đó cũng được vào khu vườn trung tâm ấy để gặp đức Thế Tôn, đảnh lễ, cúng dường, hầu cận, và gặp gỡ Tăng đoàn Tỳ Kheo.
Như vậy, do bởi Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, là vị quan tư tế tối cao, trong bảy năm ấy, có vô số chư thiên đã được khuyến khích, giáo hóa, an lập và thiết lập vững chắc vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Có vô số loài Rồng, A-tu-la, Dạ-xoa và quỷ thần rākṣasā, quỷkumbhāṇḍā, nhạc thần Gandharva, ngạ quỷ, quỷ đói piśācā, chúng sinh trong địa ngục, với số lượng không thể tính đếm, cũng được khuyến khích, giáo hóa, an lập và thiết lập vững chắc vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho đến cả những loài sinh trong đường súc sinh.
Sau khi bảy năm ấy kết thúc, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử đã đặt 84.000 bánh xe và bảo vật bánh xe thiên giới. Và đặt 84.000 voi được trang hoàng bằng bảy báu, cùng voi báu. Và xuất phát 84.000 cỗ xe.
Cách quán chiếu, hồi hướng công đức đã gieo trồng và lựa chọn phát nguyện Trang Nghiêm cõi Phật cho riêng mình để thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
Vào cuối bảy năm ấy, nơi vua Araṇemi không sinh khởi tâm ham muốn về tham dục, sân hận, si mê, quyền lực, của cải, con cái, hoàng hậu, thức ăn, đồ uống, y phục, hương thơm, xe cộ, giấc ngủ, bản thân, và cũng không mong cầu gì nơi người khác. Suốt bảy năm, Ngài không nằm nghiêng nghỉ ngơi, cũng không khởi lên ý niệm về đêm hay ngày, và không khởi lên ý niệm về sắc, ý niệm về âm thanh, ý niệm về hương vị, ý niệm về mùi hương hay ý niệm về xúc chạm.
Và trong bảy năm ấy, đức vua không sinh khởi sự mỏi mệt của thân, mà luôn luôn, không gián đoạn, ở khắp mười phương, trong mỗi một phương, Ngài đều thấy số cõi Phật nhiều bằng số lượng các hạt hạ lượng tử của 1000 cõi Phật, với sự trang nghiêm công đức, và núi Sumeru cũng không hiện ra trong tầm mắt, cũng không thấy các núi khác, không thấy các vòng xoáy thiên hà cakravāḍa, và các vòng xoáy thiên hà lớn mahā-cakravāḍā, không thấy các ranh giới của các thế giới, không thấy mặt trăng và mặt trời, và cũng không thấy các cung điện cõi trời hiện ra trong tầm mắt. Ngài thấy các cõi Phật đó hoàn toàn thanh tịnh như thế nào, thì cũng như vậy, Ngài nhìn thấy các sự trang nghiêm công đức của cõi Phật thanh tịnh và suy niệm về lời nguyện của mình.
Như vua Araṇemi sống bảy năm trong sự an lạc và công đức trang nghiêm như thế, thấy những trang nghiêm công đức của các cõi Phật như thế, rồi ngồi và suy niệm về lời nguyện cho cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh của mình.
Cũng như vậy, Thái tử Animiṣa, vương tử Nimu, vương tử Indragaṇa, và tất cả 1000 vương tử của nhà vua, cùng 84.000 quốc vương chư hầu và thêm vào 220 triệu chúng sinh, tất cả cũng như vậy, trong suốt bảy năm, sống một mình, ẩn cư, thu thúc tâm, và trong mười phương, ở mỗi một phương, họ thấy số cõi Phật nhiều bằng số lượng các hạt hạ lượng tử của 1000 cõi Phật. Và trong suốt bảy năm ấy, không sinh khởi ở họ tâm ham muốn, tâm sân hận, tâm si mê, và cho đến không sinh ra bất kỳ sự mỏi mệt của thân và tâm.
Họ thường xuyên thấy ở mười phương, mỗi một phương, số cõi Phật nhiều bằng số lượng các hạt hạ lượng tử của 1000 cõi Phật, cùng các sự trang nghiêm công đức, và núi Sumeru cũng không hiện ra trong tầm mắt, cũng không thấy các núi khác, không thấy các vòng xoáy thiên hà cakravāḍa, và các vòng xoáy thiên hà lớn mahā-cakravāḍā, không thấy các ranh giới của các thế giới, không thấy mặt trăng và mặt trời, và cũng không thấy các cung điện cõi trời hiện ra trong tầm mắt. Họ thấy các cõi Phật đó hoàn toàn thanh tịnh như thế nào, thì cũng như vậy, họ nhìn thấy các sự trang nghiêm công đức của cõi Phật thanh tịnh và suy niệm về lời nguyện của mình. Tất cả đều sống bảy năm trong sự an lạc như thế. Có người suy niệm về các sự trang nghiêm công đức của cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh, có người suy niệm về các sự trang nghiêm công đức của cõi Phật không thanh tịnh.
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, biết rằng bảy năm ấy đã trôi qua và đã hoàn mãn, liền đem ra bảy báu, rồi đi đến chỗ đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, chắp tay đảnh lễ và thưa với đức Thế Tôn rằng:
Thưa đức Thế Tôn, vua Araṇemi đã được cha khuyến khích phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài, sau khi trở về cung điện, sống một mình, vào chỗ vắng, thu thúc tâm và ngồi thiền; không cho phép bất kỳ người nào vào đó. Cũng như vậy, 1.000 vương tử đã được khuyến khích phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và từng người một đã trở về cung điện của mình, sống một mình, thu thúc tâm và ngồi thiền; không cho phép bất kỳ ai vào.
Cứ như vậy cho đến 84.000 quốc vương chư hầu, và thêm 220 triệu chúng sinh, đều đã được khuyến khích, an lập và thiết lập vững chắc vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tất cả, sau khi trở về cung điện của riêng mình, đều sống một mình, vào nơi thanh vắng, ngồi thiền và thu thúc tâm; không cho phép bất kỳ ai vào đó.
Nguyện đức Thế Tôn hãy nhiếp trì những vị ấy, cho đến khi vua Araṇemi từ chỗ ấy xuất định mà đến đây.
Và tất cả những người mà cha đã khuyến khích phát tâm giác ngộ, cũng sẽ đến đây, và được nhiếp thọ trí bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Và trực tiếp từ đức Thế Tôn, họ sẽ nhận được lời thọ ký, và sẽ nhận lấy dòng họ, danh hiệu) và cõi Phật.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, nhập vào chánh định samādhi có tên là “Chủ Rút Ra” (nirhārapatiṃ). Khi Ngài an trú trong định ấy, từ miệng ngại phóng ra các luồng hào quang có màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng tươi và pha lê.
Nhờ ánh sáng ấy, trước mặt những vị đang an trú trong thiền định, hiện ra một hóa thân Phạm thiên và nói như sau:
“Này các vị, hãy đứng dậy, đi đến để gặp đức Thế Tôn, đảnh lễ, cúng dường, hầu cận Tăng Đoàn Tỳ Kheo. Này các vị, đại lễ cúng dường bảy năm của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử đã viên mãn. Đức Thế Tôn sẽ lại khởi hành và thực hành hoá độ ở nơi khác.”
Sau đó, tất cả họ được khuyến khích bởi các tia sáng ấy, liền đứng dậy và khuyến thỉnh vua Araṇemi. Ngài, được họ khuyến khích, liền xuất định và khởi hành. Và khi nhà vua ấy lên đường, chư thiên ở giữa hư không liền tấu lên các loại nhạc khí như trống bherī, trống mṛdaṅga, trống paṭaha và nhiều loại khác.
Lúc bấy giờ, vua Araṇemi lên xe, cùng với 1.000 vương tử, 84.000 quốc vương chư hầu, và 220 triệu chúng sinh vây quanh, xuất hành từ kinh thành đến chỗ của đức Thế Tôn để gặp, đảnh lễ và cúng dường hầu cận. Ngài đi xe cho đến khi xe có thể đi được, rồi xuống xe, và sau khi xuống, đi bộ vào vườn Jambūvana. Sau khi vào, Ngài đi đến chỗ đức Thế Tôn, tiến lại gần, đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn bằng trán, và cũng đảnh lễ Tăng đoàn Tỳ Kheo, rồi ngồi xuống một bên, cùng với vô số chúng sinh.
Bấy giờ, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử nói với vua Araṇemi rằng:
Thưa Đại vương, hãy hoan hỷ tán thán việc mà Ngài đã đích thân cúng dường đức Thế Tôn bằng mọi vật dụng, cùng vô số Tỳ Kheo trong Tăng đoàn, và đã đem ra các loại châu báu quý hiếm, cũng như 84.000 thành phố để làm kinh phí hoạt động cho Tăng đoàn. Toàn bộ khối lượng công đức đi kèm với sự hoan hỷ tán thán, và công đức đi kèm với sự xả bỏ, xin hãy hồi hướng tất cả vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Như vậy, vị Bà-la-môn ấy đã khuyến khích 1.000 vương tử, và cũng như vậy, với 84.000 quốc vương chư hầu, cùng với vô số chúng sinh. Với khối lượng công đức đi kèm sự hoan hỷ tán thán, tất cả đã được khuyến khích và an lập vững chắc vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và Ngài nói như sau:
Thưa mọi người, hãy hoan hỷ tán thán việc mà các vị đã đích thân cúng dường đức Thế Tôn bằng mọi vật dụng, cùng vô số Tỳ Kheo trong Tăng đoàn, và đã đem ra các loại châu báu quý hiếm, cũng như 84.000 thành phố để làm kinh phí hoạt động cho Tăng đoàn. Toàn bộ khối lượng công đức đi kèm với sự hoan hỷ tán thán, và công đức đi kèm với sự xả bỏ, xin hãy hồi hướng tất cả vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bởi nhờ công đức bố thí này,
Ta chẳng mong địa vị Thiên Đế,
Cũng chẳng cầu quả báo Phạm thiên.
Ta chẳng ước vinh hoa quyền thế,
Nơi vương vị mong manh gió cuốn.
Đích thực, quả sự bố thí này,
Chỉ để cầu được niềm tin tối thượng,
Để đạt được Tỉnh thức vô song,
Hoàn toàn làm chủ tâm tự tại,
Và cứu độ hết thảy chúng sinh.
Đây là Phẩm thứ ba có tên là “Xả Bỏ Bố Thí”, thuộc Thánh Kinh Đại Thừa Hoa Sen Trắng Puṇḍarīka Đại Bi Thanh Tịnh, đến đây là hoàn tất.
4. bodhisattva-vyākaraṇa-parivartaścaturthaḥ
4. Phẩm Thọ Ký Bồ Tát
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, liền khởi lên ý nghĩ như sau:
Nơi thế gian này, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, đã khiến vô số chúng sinh phát tâm, an trụ, thiết lập trên địa vị Không còn thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; những vị ấy nay Ta sẽ thọ ký, và các cõi Phật cũng sẽ được hiển bày.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nhập vào chánh định samādhi có tên là “Không Đánh Mất Tâm Tỉnh Thức” (bodhicitta-asaṃpramoṣa). Ngài mỉm cười, và từ nụ cười ấy, chiếu rọi ánh sáng khắp vô lượng vô biên các cõi Phật, soi hiện các cảnh giới trang nghiêm công đức của các cõi Phật cho vua Araṇemi cùng vô lượng chúng sinh.
Khi ấy, nơi mười phương, từ vô lượng các cõi Phật, các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát thấy ánh sáng từ oai lực của đức Phật, liền vân tập đến thế giới này, để chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, đảnh lễ, thân cận cúng dường, và kính lễ Tăng đoàn Tỳ Kheo. Các vị ấy đã dùng vô số biến hóa thần thông của Bồ Tát cúng dường đức Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân Ngài, và an trụ một phía trước đức Thế Tôn, với tâm mong muốn được lắng nghe các bản nguyện của Bồ Tát.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho vua Araṇemi - đức Thế Tôn A Di Đà Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, vị đại thần tư tế tối cao, liền nói với vua Araṇemi rằng:
Thưa Đại vương, giờ đây xin Ngài hãy tiếp nhận trước tiên bản nguyện về cảnh giới cõi Phật được trang nghiêm bằng các công đức thù thắng.
Khi ấy, vua Araṇemi chắp tay, hướng về đức Thế Tôn, và thưa rằng:
Thưa đức Thế Tôn, con là người khát ngưỡng sự Tỉnh Thức.
Trong ba tháng, con đã cung kính cúng dường đức Thế Tôn bằng vô lượng vật phẩm các loại, cũng như cung dưỡng Tăng đoàn Tỳ Kheo vô lượng không thể đo lường. Tất cả căn lành ấy, con đều hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Và suốt bảy năm, thưa đức Thế Tôn, con đã tư duy về các phẩm chất công đức trang nghiêm của cõi Phật mà con nguyện kiến lập. Tại nơi ấy, thưa đức Thế Tôn, con sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cõi Phật ấy.
Nơi ấy, sẽ không còn có các cảnh giới địa ngục, súc sinh, hay cõi âm giới yāma. Những chúng sinh nào lâm chung và tái sinh về cõi Phật của con, nguyện cho họ sẽ không còn sinh vào các đường ác. Tất cả chúng sinh ở nơi đó đều sẽ có sắc thân vàng ròng rực rỡ. Tất cả các vị trời và người ở nơi ấy đều không còn có sự khác biệt với nhau. Tất cả chúng sinh nơi ấy đều sẽ có trí nhớ các đời sống quá khứ. Tất cả chúng sinh sẽ đều có thiên nhãn, có thể thấy được hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ các đức Phật đang hiện hữu, đang giáo hóa, đang thuyết pháp trong các thế giới khác. Tất cả chúng sinh cũng đều có thiên nhĩ, để có thể nghe được lời thuyết pháp của hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ các đức Phật đang giảng pháp. Tất cả chúng sinh sẽ có khả năng biết tâm người khác, và thấu rõ hành tướng của tâm ý của vô số chúng sinh đang hiện hữu trong hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ cõi Phật khác. Tất cả chúng sinh sẽ được thành tựu với sức mạnh thần thông thiện xảo, đến mức chỉ với một niệm tâm khởi có thể vượt qua hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ cõi Phật.
Nguyện cho nơi ấy không có chúng sinh nào có tâm chấp thủ, thậm chí đối với chính thân thể của mình, cũng không sinh tâm nắm giữ. Tất cả chúng sinh ấy đều sẽ trở thành những vị không còn thoái chuyển nơi con đường hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tất cả chúng sinh ấy sẽ đều là những vị hóa sinh, tức không sinh từ bào thai. Nơi ấy, không có sự hiện hữu của thai sinh từ người mẹ. Nơi ấy, tuổi thọ của chúng sinh không bị giới hạn bởi số lượng, mà tùy theo sức bản nguyện. Ngay cả tên gọi của điều bất thiện nơi chúng sinh ở cõi ấy, cũng hoàn toàn không có. Nơi cõi Phật ấy, không có mùi hôi bất tịnh; trái lại, nhờ hương thơm của đức Thế Tôn vượt hơn cả hương của cõi trời, nên cõi Phật ấy trở nên rạng rỡ.
Tất cả chúng sinh ấy đều được trang nghiêm với 32 tướng tốt. Tất cả chúng sinh sẽ chỉ còn một lần tái sinh nữa là thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ngoại trừ những ai phát nguyện ở lại vì đại nguyện.
Tất cả chúng sinh nơi ấy, chỉ trong một buổi sáng, nhờ oai lực của đức Phật, có thể phụng thờ vô lượng các đức Phật không thể tính kể. Nếu các vị ấy mong muốn cúng dường chư Phật bằng nhiều hình thức thần biến của Bồ Tát, thì tất cả những điều ấy đều được thành tựu do công đức từ đời trước, và liền được hiện bày.
Tất cả chúng sinh ấy đều có thể thuyết giảng toàn bộ Tạng Kinh của Phật Toàn Giác (buddha-piṭakaṃ). Tất cả chúng sinh ấy đều được thành tựu sức mạnh như thần Nārāyaṇa.
Không có một chúng sinh nào, dù với thiên nhãn, có thể thấy trọn vẹn toàn bộ vẻ đẹp trang nghiêm công đức của cõi Phật ấy, thậm chí đến tận cùng mô tả cũng không thể nắm bắt hết được.
Tất cả chúng sinh nơi ấy đều sẽ đạt được trí biết chân thật và có tài biện luận vô lượng. Thân thể của mỗi vị Bồ Tát sẽ có kích thước lớn bằng 1.000 (12.000km).
Cõi Phật ấy sẽ rực rỡ ánh sáng, và khắp mọi nơi, sẽ hiện ra các trang nghiêm công đức của các cõi Phật không thể tính kể. Những chúng sinh nào sinh vào cõi ấy thì cho đến khi đạt Tỉnh thứ đều sống đời phạm hạnh.
Ở cõi Phật ấy, tất cả chúng sinh từ thế gian cho đến cõi của chư thiên, đều là những bậc đáng tôn kính, và cho đến lúc chứng đạt Tỉnh thức, không ai có khiếm khuyết về các căn giác quan. Các chúng sinh tái sinh cùng lúc về nơi ấy, sẽ được thọ hưởng niềm hỷ lạc thù thắng của bậc Thánh, vượt hơn cả hỷ lạc cõi trời. Tất cả chúng sinh nơi ấy đều tinh cần nhiếp tâm nơi các căn lành. Tất cả chúng sinh nơi ấy đều khoác y cà-sa mới.
Các chúng sinh tái sinh cùng lúc về nơi ấy, sẽ đạt được tâm chánh định samādhi phân minh rõ ràng. Và do đắc được chánh định samādhi ấy, họ có thể đến vô lượng vô biên các cõi Phật không thể tính đếm, lễ bái các đức Phật nơi ấy, và chiêm ngưỡng cho đến tận khi chứng Tỉnh thức.
Những vị Bồ Tát nào sinh về cõi ấy và khởi lòng mong nguyện những cõi Phật trang nghiêm như thế nào, thì các vị ấy sẽ thấy các trang nghiêm cõi Phật đúng như thế ấy trong các cây báu.
Các chúng sinh tái sinh cùng lúc về nơi ấy, đều đạt được chánh định samādhi, nhờ đó, họ có thể thường xuyên thấy chư Phật đang trụ trì, thuyết pháp trong các cõi Phật khác, trải rộng khắp mười phương vô lượng vô biên.
Những chúng sinh nào từ nơi ấy tái sinh trở lại, thì tất cả sẽ có hình sắc, màu da, y phục, cung điện, và trang sức giống hệt như chư thiên cõi trời Hoàn Toàn Tự Tại Biến Hoá paranirmitavaśavartin.
Nơi cõi Phật ấy, không có hành tinh đất cát sỏi đá hay hố đen, không có các vòng xoáy thiên hà cakravāḍa, vòng xoáy thiên hà lớn mahācakravāḍa, không có núi Sumeru, cũng không có đại dương. Không hề có bất kỳ tiếng nói nào biểu hiện phiền não, chướng ngại, hay hạ liệt, tất cả đều hoàn toàn vắng mặt. Nơi ấy, không có âm thanh nào từ địa ngục, súc sinh, hay cõi âm phủ yama; cũng không có lời kêu than, không có từ ngữ biểu thị đau khổ.
Thưa đức Thế Tôn, con cầu mong một cõi Phật như thế này. Con nguyện hành trì và sống lối sống với các hạnh khó làm của Bồ Tát, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, cho đến khi con thành tựu sự hoàn toàn thanh tịnh cho cõi Phật với những công đức như thế.
Như vậy, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, con sẽ thực hiện hạnh nguyện với lối sống tự lực như thế, sau đó con sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cây Tỉnh thức của con sẽ có chu vi là 10.000 yojana (120.000km). Khi con an tọa tại đó, trong một khoảnh khắc sát-na duy nhất, với tâm được phát khởi, con sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ánh sáng của con sẽ vô lượng, chiếu soi khắp vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ cõi Phật. Thọ mạng của con sẽ vô biên, trải qua vô lượng vô số hàng trăm triệu tỷ tỷ tỷ tỷ tỷ tỷ kiếp, không ai có thể đếm được, trừ khi bằng trí tuệ của Bậc Toàn Tri.
Tăng đoàn Bồ Tát của con cũng sẽ vô lượng, không có hàng Thanh Văn và Độc Giác Phật trong đó. Số lượng ấy không thể đếm được nếu không có Trí Toàn Tri.
Khi con đã chứng đắc Tỉnh thức, thì trong vô lượng vô biên a-sam-khê các cõi Phật khác, các đức Phật Thế Tôn sẽ tuyên dương danh hiệu con, truyền bá âm thanh ấy, và tán dương danh tiếng con.
Và sau khi con chứng đắc Tỉnh thức, trong các thế giới khác không thể tính kể, các chúng sinh sẽ phát tâm cầu Tỉnh thức, mong được sinh về cõi Phật của con, và hoàn toàn hồi hướng căn lành về cõi ấy. Vào lúc lâm chung của những chúng sinh ấy, con sẽ hiện ra trước mặt họ, cùng với đại chúng Bồ Tát vây quanh. Và những chúng sinh ấy, khi thấy con, sẽ khởi tâm hoan hỷ và thanh tịnh, hướng về con, tiêu trừ tất cả các chướng ngại, và sau khi mạng chung, sẽ được sinh vào cõi Phật của con.
Nếu có các vị Bồ Tát trong cõi ấy, mong muốn được nghe pháp thoại chưa từng được nghe trước đó từ nơi con, thì những gì họ mong muốn như thế nào, họ sẽ được nghe đúng như thế ấy.
Khi con chứng đắc Tỉnh thức, trong vô số cõi Phật, những vị Bồ Tát nào nghe được danh hiệu của con, thì họ sẽ trở thành những người không thối chuyển đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Họ sẽ đạt được Nhẫn đầu tiên, rồi Nhẫn thứ hai, và bất kỳ loại chánh định samādhi hay sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī nào mà họ mong cầu, thì họ cũng sẽ đạt được đúng như thế.
Về sau, sau khi con nhập Niết-bàn, trong vô lượng kiếp và vô số cõi Phật, sẽ có các vị Bồ Tát, khi nghe danh hiệu của con, sẽ sinh khởi niềm vui thù thắng, thanh tịnh và hoan hỷ lớn. Họ sẽ đảnh lễ con, hoan hỷ với sự kỳ diệu, và ca ngợi danh tiếng và đức hạnh của con.
Khi con còn đang ở địa vị Bồ Tát, sau khi hoàn thành viên mãn Phật sự, lúc ấy, con sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và sau khi con đã chứng đắc Chánh Đẳng Giác, các vị Bồ Tát sẽ đạt được sự thanh tịnh tối thượng, thành tựu các Nhẫn từ bậc đầu tiên, đến Nhẫn thứ hai, thứ ba. Bất kỳ chánh định samādhi hay sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī nào mà họ mong cầu, họ cũng sẽ đạt được đúng như vậy, và họ sẽ thấy rõ suốt cho đến lúc thành Tỉnh Thức.
Khi con đã chứng đắc Tỉnh thức, trong vô lượng cõi Phật, những người nữ nghe được danh hiệu của con, sẽ sinh khởi hoan hỷ tối thượng, phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và cho đến tận khi thành Tỉnh Thức, họ sẽ không còn thọ thân nữ nữa.
Và sau khi con đã nhập Niết-bàn, trong vô lượng kiếp, những người nữ trong các thế giới không thể tính đếm, mà nghe được danh hiệu của con, sẽ đạt được sự hoan hỷ tối thượng và thanh tịnh, phát khởi tâm Tỉnh thức, và cho đến khi thành Tỉnh Thức, họ cũng sẽ không còn thọ thân nữ nữa.
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, con cầu mong một cõi Phật như thế này, và mong rằng trong cõi ấy, con sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, với những chúng sinh đều có tâm hoàn toàn thanh tịnh như thế.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đã tán thán vua Araṇemi rằng:
Lành thay, lành thay, thưa đại vương! Lời nguyện của Ngài thật rất sâu xa và cõi Phật của Ngài đã được tiếp nhận với sự thanh tịnh hoàn toàn viên mãn.
Hãy nhìn xem, thưa đại vương, ở phương Tây, cách đây 1.000 tỷ cõi Phật, có một thế giới tên là Indrasuvirājitā - Trang Nghiêm Lộng Lẫy Bởi Vua Trời Indra.
Nơi đó, hiện có đức Thế Tôn tên là Indraghoṣeśvararāja - Vị Vua Chúa Tể Âm Thanh Sấm Trời Indra Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đang trụ thế, còn hiện hữu, đang thuyết giảng Chánh pháp cho các chúng sinh hoàn toàn thanh tịnh.
Và trong cõi Phật ấy, không hề có sự hiện hữu của hàng Thanh Văn và Độc Giác Phật, cũng không có thuyết giảng nào liên quan đến họ được khởi lên, mà chỉ có sự thuyết giảng thanh tịnh của Đại thừa. Tất cả chúng sinh trong cõi ấy đều là hóa sinh, không hề có danh xưng nào dành cho sinh ra từ mẹ. Tất cả những công đức này đều hiện hữu trong cõi Phật ấy, như chính đại vương đã phát khởi một lời nguyện thiết lập công đức vô lượng nơi cõi Phật, và đã thu nhiếp vô lượng chúng sinh cần được hóa độ.
Do vậy, thưa đại vương, sau khi đức Thế Tôn Vị Vua Chúa Tể Âm Thanh Sấm Trời Indra Như Lai nhập Niết-bàn, và khi Chánh pháp của Ngài đã ẩn diệt, sau khoảng 60 tiểu kiếp, thế giới ấy sẽ được gọi là Meruprabhā - Meru Ánh Sáng.
Nơi đó, sẽ xuất hiện đức Thế Tôn hiệu là Acintyamatiguṇarāja - Vị Vua Các Phẩm Hạnh Siêu Việt Thuộc Trí Tuệ Mati Không Thể Nghĩ Bàn Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.
Cũng như cõi Phật được trang nghiêm bởi công đức của đức Thế Tôn Vị Vua Chúa Tể Âm Thanh Sấm Trời Indra Như Lai, thì y như vậy, cõi thế giới Meru Ánh Sáng cũng sẽ có công đức trang nghiêm tương tự của đức Thế Tôn Vị Vua Các Phẩm Hạnh Siêu Việt Thuộc Trí Tuệ Mati Không Thể Nghĩ Bàn Như Lai.
Và đức Thế Tôn Vị Vua Các Phẩm Hạnh Siêu Việt Thuộc Trí Tuệ Mati Không Thể Nghĩ Bàn Như Lai ấy sẽ có tuổi thọ kéo dài suốt 60 tiểu kiếp.
Khi đức Thế Tôn Vị Vua Các Phẩm Hạnh Siêu Việt Thuộc Trí Tuệ Mati Không Thể Nghĩ Bàn Như Lai nhập Niết-bàn, thì Chánh pháp của Ngài sẽ còn tồn tại suốt 16 tiểu kiếp. Khi Chánh pháp ấy ẩn diệt, thì sau 1.000 tiểu kiếp, thế giới ấy sẽ mang tên là Virati - Diệt Tận.
Ở đó, có đức Thế Tôn tên là Raśmi - Ánh Sáng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, sẽ xuất hiện. Tuổi thọ của đức Như Lai ấy cũng giống như vị Như Lai trước, là 60 tiểu kiếp.
Sau khi đức Như Lai ấy nhập Niết-bàn và Chánh pháp đã diệt mất, thì thế giới ấy sẽ được gọi là Aparā - Cực Tây. Tại đó, sẽ xuất hiện một đức Thế Tôn hiệu là Ratneśvaraghoṣa - Âm Thanh Vị Chúa Tể Các Ngọc Báu Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.
Cõi Phật của Ngài được trang nghiêm bằng các công đức hoàn toàn tương đương. Tuổi thọ của Ngài cũng ngang bằng với các đức Phật trước. Ngài sẽ trụ thế, giáo hóa và thuyết giảng Chánh pháp.
Sau khi đức Phật ấy nhập Niết-bàn, Chánh pháp sẽ còn tồn tại trong 7 tiểu kiếp. Rồi ngay khi Chánh pháp ấy đã diệt, thì sẽ có vô lượng đức Như Lai lần lượt nối tiếp nhau xuất hiện, với thế giới, thọ mạng, trang nghiêm công đức cũng tương tự như vậy. Như thế, ta thấy có vô lượng vô biên các đức Như Lai, sẽ sinh ra trong cõi Phật ấy, và cũng thấy các Ngài sẽ nhập Niết-bàn. Thế giới ấy không hề bị hoại diệt, cũng không bị suy tàn.
Vào thời vị lai chưa đến, sau khi vượt qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa kiếp thứ nhất, rồi lại vượt qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa kiếp thứ hai, thì thế giới ấy sẽ được gọi là Sukhāvatī - Cực Lạc.
Tại nơi ấy, thưa đại vương, Ngài sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài sẽ trở thành một đức Thế Tôn với danh hiệu là Amitāyus - Vô Lượng Thọ - A Di Đà Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn..
Ngay khi lời ấy được nói ra, Vua Araṇemi thưa rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, những vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ấy – những người trong số chúng con, ai sẽ là những vị đầu tiên chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong cõi Phật ấy?
Đức Thế Tôn đáp rằng:
Những vị ấy, thưa Đại vương, là các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát – những người đã đến từ vô lượng vô biên a-sam-khê, không thể sánh được và không thể đo lường được các thế giới mười phương, đến để đảnh lễ Ta, phụng thờ Ta, và nghe pháp. Những vị đang ngồi trước Ta, đã được các đức Phật quá khứ thọ ký rằng sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và cả các đức Phật hiện tại, các bậc Thế Tôn cũng đang thọ ký các vị thiện nam tử ấy thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Những vị ấy, sẽ là những người đầu tiên trong cõi Phật ấy, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Mỗi một vị trong số họ, thưa Đại vương, đều là vị Bồ Tát, đã từng phục vụ trước mặt vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ các đức Phật, đã vun bồi căn lành sâu dày, đã tu tập tuệ giác prajña viên mãn. Chính những vị thiện nam tử ấy, thưa Đại vương, sẽ là những vị Phật đầu tiên trong cõi Phật ấy.
Vua Araṇemi thưa rằng:
Vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử này, chính là người đã hướng dẫn con cùng với đại chúng phát tâm cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vậy xin hỏi, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, vị ấy sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác sau khoảng thời gian bao lâu?
Đức Thế Tôn nói rằng:
Vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử này là bậc đại bi. Đại vương sẽ nghe thấy tiếng rống sư tử của vị ấy!
Vua Araṇemi thưa rằng:
Nếu như lời phát nguyện này của con được thành tựu viên mãn, như đức Thế Tôn đã thọ ký cho con, thì nguyện khi con đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn bằng năm phần thân thể chạm đất, khi ấy, xin cho vô lượng thế giới nhiều như số cát sông Hằng đều chấn động, rung chuyển. Và trong các cõi Phật ấy, những đức Phật đang an trụ, còn tại thế, đang giáo hóa chúng sinh, xin các Ngài thọ ký cho con.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vua Araṇemi liền phủ phục sát đất trước hai bàn chân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai với năm phần thân thể chạm đất. Ngay khi đầu của nhà vua chạm đất, thì vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng đều chấn động, rung chuyển, dao động mạnh, xao động lớn, và chấn động dữ dội. Hằng Hà Sa các đức Phật trong số ấy liền thọ ký rằng:
Tại cõi Phật có tên là Santīraṇa - Bờ Bên Kia Hoàn Toàn, vào kiếp tên là Dhāraṇa - Địa Trì, trong đời sống của chúng sinh có tuổi thọ 80.000 năm, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đã cùng nhau thọ ký cho vua Araṇemi như sau:
Ông, trong tương lai, sau khi đã vượt qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa kiếp thứ nhất, và bước vào 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, sẽ thành Phật tại thế giới có tên là Cực Lạc Sukhāvatī, nơi đó có vô lượng thanh tịnh, ông sẽ thành đức Phật hiệu A Di Đà Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, và ánh sáng của ông sẽ chiếu soi khắp mười phương với số cõi Phật nhiều như cát sông Hằng.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói rằng:
Hãy đứng lên, này bậc Thượng Nhân,
Người đã hiểu rõ được Chánh Pháp!
Ông đã được 10 Lực thọ ký,
Ông sẽ trở thành người điều phục,
Độ những kẻ khó rất điều phục,
Giữa thế giới rộng lớn trang nghiêm,
Với núi non hùng vĩ trùng điệp,
Vang dội như tiếng sóng sông Hằng.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vua Araṇemi, với tâm hoan hỷ, hưng phấn, đầy phúc lạc, khởi tâm hân hoan an lạc, bèn rời khỏi hội chúng, không đi quá xa), tìm đến một nơi vắng vẻ, ngồi xuống để lắng nghe Chánh Pháp.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho Bồ Tát Avalokiteśvara - Quán Thế Âm
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử liền gọi đến trưởng tử của vua Araṇemi, là Thái tử tên gọi Animiṣa - Không Chớp Mắt.
Thưa Thái tử, giờ đây xin Ngài hãy tiếp nhận trước tiên bản nguyện về cảnh giới cõi Phật được trang nghiêm bằng các công đức thù thắng.
Khi ấy, Thái tử Animiṣa chắp tay, hướng về đức Thế Tôn, và thưa rằng:
Con đã quán sát các cảnh giới ác, và những chúng sinh sinh về nơi ấy đang phải chịu đựng khổ đau dữ dội. Con cũng đã quán thấy các cõi trời, và những chúng sinh sinh về nơi ấy, tâm họ bị ô nhiễm, rồi lại đọa lạc vào các đường ác.
Tất cả chúng sinh mà con quán thấy, đang sống trong hoàn cảnh không có thiện tri thức, trong thời kỳ đói kém chánh pháp, cạn kiệt căn lành, bị trói buộc bởi chấp trước tà kiến, bị đè nén bởi các tà đạo.
Với tiếng nói của mình, con xin thưa với đức Thế Tôn, con thỉnh nguyện vì chúng sinh ấy, và con nguyện đem tất cả các thiện căn hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nếu như con tu hành đời sống Bồ Tát, thì bất kỳ chúng sinh nào đang bị khổ não dày vò, sợ hãi bức bách, chìm sâu vào thời kỳ đói kém chánh pháp và bóng tối vô minh, bị lẩn trốn, suy sụp, không nơi nương tựa, mà nhớ tưởng đến con, và xưng danh hiệu con, thì nếu con có thể nghe được bằng thiên nhĩ, thấy được bằng thiên nhãn, nhưng lại không thể cứu thoát những chúng sinh ấy khỏi hoạn nạn, thì con nguyện không thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Khi nào con, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, vì lợi ích của chúng sinh, với đại nguyện lâu dài và thù thắng, thực hành đời sống Bồ Tát trong thời gian lâu xa, thì ngay khi ấy mong rằng nguyện vọng của con sẽ được viên mãn trọn vẹn.
Khi nào con, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, biết rằng vua Araṇemi, sau khi đã bước vào a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tại thế giới tên là Cực Lạc Sukhāvatī, và sẽ thành đức Thế Tôn hiệu là A Di Đà Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác. Tại cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh ấy, Ngài sẽ thực hiện Phật sự vì những chúng sinh hoàn toàn thanh tịnh.
Khi đức Thế Tôn Amitāyus Như Lai ấy, sau vô lượng kiếp, đã hoàn thành mọi Phật sự, sẽ nhập vào cảnh giới Niết-bàn không còn dư y với sự viên mãn trọn vẹn của Phật sự; chừng nào sau khi Ngài ấy nhập Niết-bàn mà Chánh Pháp vẫn còn tồn tại, thì suốt thời gian ấy con sẽ thực hành đời sống Bồ Tát, với thân phận là một vị chúng sinh tỉnh thức, con sẽ làm Phật sự. Khi nào trong canh đầu của đêm, giáo pháp của đức Thế Tôn Amitāyus Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác diệt mất, thì ngay trong canh cuối của đêm ấy, con sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nguyện đức Thế Tôn thọ ký cho con về quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cũng vậy, con xin dâng lời nguyện thỉnh đến các đức Phật Thế Tôn đang trú tại, hiện hữu, và chuyển pháp luân trong mười phương với số thế giới nhiều như cát sông Hằng, rằng: xin các đức Phật Thế Tôn ấy thọ ký cho con về quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Này thiện nam tử, khi ấy thái tử Animiṣa đã được đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai thọ ký như sau:
Này thiện nam tử, do bởi ông đã quán chiếu các ác đạo, đã quán thấy các cõi trời, đã thấy rõ khổ đau của tất cả chúng sinh, đã khởi lên tâm đại bi vì muốn cứu độ chúng sinh ra khỏi khổ đau, vì muốn làm lắng dịu mọi phiền não; vì vậy, này thiện nam tử, ông sẽ mang danh hiệu là Avalokiteśvara – Quán Thế Âm, Đấng Chúa Tể Quán Sát Từ Trên Xuống.
Chính ông, này Quán Thế Âm, sẽ là vị cứu khổ cho vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ chúng sinh. Là một vị chúng sinh tỉnh thức, này thiện nam tử, ông sẽ thực hành Phật sự.
Khi đức Thế Tôn Amitābha - Vô Lượng Quang Như Lai đã nhập Niết-bàn, và bước sang a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, ngay trong đêm ấy, khi vào canh đầu, Chánh Pháp sẽ diệt mất, thì ngay trong canh cuối, này thiện nam tử, lúc bấy giờ, thế giới ấy đổi tên là Anekavyūha - Vô Lượng Trang Nghiêm, dưới cội cây Giác Ngộ, nơi tòa Kim Cương, ông sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ông sẽ mang danh hiệu là Samantaraśmyabhyudgataśrīkūṭarāja - Vị Vua Đỉnh Cao Phước Đức Vượt Lên Trên Chiếu Ánh Sáng Bình Đẳng Rộng Khắp Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Tuổi thọ của ông sẽ là 9.600 tỷ tỷ tỷ kiếp. Sau khi ông nhập Niết-bàn, Chánh Pháp của ông sẽ còn tồn tại trong 630 triệu kiếp.
Bồ Tát Quán Thế Âm thưa rằng:
Nếu như, thưa đức Thế Tôn, những nguyện vọng này của con được viên mãn, thì khi ấy, lúc con thực hiện đảnh lễ nơi bàn chân của đức Thế Tôn, thì vào lúc đó, các đức Phật Thế Tôn đang hiện hữu, được duy trì, và đang giảng dạy giáo pháp trong mười phương, nơi các thế giới nhiều như cát sông Hằng, cầu mong các Ngài ấy sẽ thọ ký cho con. Và mong cho đại địa trong tất cả các thế giới ở mười phương, nhiều như số cát sông Hằng, sẽ chuyển động. Mong cho từ tất cả các đỉnh núi, đá tảng, và cây cối, sẽ vang ra âm thanh của những loại nhạc cụ với năm cung bậc âm nhạc. Và mong cho tất cả chúng sinh sẽ đạt được tâm lìa dục.
Khi ấy, do bởi Bồ Tát Quán Thế Âm đã đảnh lễ đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng cách dùng năm chi phần thân thể sát đất, thì đại địa trong các cõi Phật nhiều như cát sông Hằng liền chuyển động. Và những đức Phật ấy liền thọ ký cho Bồ Tát Quán Thế Âm thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Âm thanh của các loại nhạc khí với năm cung bậc âm thanh vang ra từ tất cả các đỉnh núi và đá tảng. Và tất cả chúng sinh liền an trú trong tâm lìa dục.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói rằng:
Hãy đứng dậy, bậc đầy phúc đức,
Từ đại bi, tâm đầy hoan hỷ,
Ông đã được thọ ký mười phương,
Bậc anh hùng mang thân nguyện lực.
Đại địa và tất cả cõi Phật,
Đã chấn động, sáu tướng chấn động,
Ông sẽ trở thành bậc Thượng Thủ,
Bậc Đại Thánh Chiến Thắng Tối Thượng.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho Bồ Tát Mahāsthāman - Đại Thế Chí
Lúc bấy giờ, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, là đại thần tư tế tối cao, đã gọi vị vương tử thứ hai có tên là Nimi, và nói rằng:
Này thiện nam tử, ông hãy tùy hỷ hạnh bố thí lớn. Những gì là điều thiện mà ông đã tích lũy được, hãy đem tất cả hồi hướng cho mục đích hoá độ chúng sinh và sự chứng đắc Trí Toàn Tri, và hãy phát khởi tâm nguyện đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, vương tử Nimi ngồi xuống trước mặt đức Thế Tôn, và thưa rằng:
Những gì mà con đã cúng dường và phụng sự, thưa đức Thế Tôn, cùng với tất cả các vật dụng và cung kính với vô lượng chúng Tăng, và khối lượng phước đức đã sinh khởi nhờ sự tùy hỷ, và tất cả các công đức thiện lành từ thân, lời nói, và ý nghĩ đúng đắn của con — tất cả đều được con hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Con nguyện không chỉ chứng đạt sự Tỉnh thức nơi cõi Phật đầy ô nhiễm này, mà tại nơi cõi thế giới được tập hợp bởi tất cả các loại báu, nơi có vô số trang nghiêm bằng châu báu, nơi vị thiếu niên Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ ngồi dưới cây Tỉnh thức, và sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài ấy sẽ là đức Thế Tôn có tên là Vị Vua Đỉnh Cao Phước Đức Vượt Lên Trên Chiếu Ánh Sáng Bình Đẳng Rộng Khắp Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.
Con nguyện thỉnh cầu đức Phật ấy vì mục đích thuyết pháp, và trong suốt khoảng thời gian đức Như Lai ấy còn thuyết pháp, thì con sẽ thực hành lối sống Bồ Tát liên tục như thế. Khi đức Như Lai ấy đã diệt độ và chánh pháp đã ẩn mất, thì ngay sau đó, con sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cõi Phật của con sẽ trở thành như thế, được trang nghiêm bởi các công đức như vậy. Cũng như vậy, con sẽ thực hiện công hạnh của một đức Phật. Cũng như vậy, con sẽ nhập Niết-bàn. Và cũng như vậy, sau khi con diệt độ, chánh pháp sẽ còn tồn tại lâu dài. Toàn bộ các sự trang nghiêm công đức sẽ giống như của đức Thế Tôn Vị Vua Đỉnh Cao Công Đức Vượt Lên Trên Chiếu Ánh Sáng Bình Đẳng Rộng Khắp Như Lai.
Khi lời nguyện vừa được nói ra, đức Thế Tôn nói như sau:
Này thiện nam tử, Mahāsthāman - Sức Mạnh Rộng Lớn (Đại Thế Lực), lời nguyện của ông đã được phát khởi. Ông, này thiện nam tử, sẽ đạt được cảnh giới như ông đã tự chọn lấy. Ông sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tại cõi Phật kia. Ông sẽ trở thành đức Thế Tôn có danh hiệu là Supratiṣṭhita-guṇa-maṇi-kūṭarāja - Vị Vua Đỉnh Cao Ngọc Quý Mani Công Đức Được An Lập Vững Chắc Hoàn Hảo Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Này Mahāsthāman, vì đã chọn lấy nơi cao quý ấy, nên ông, này thiện nam tử, sẽ được gọi là Mahāsthāmaprāpta - Bậc Đạt Đến Sức Mạnh Rộng Lớn (Đại Thế Chí).
Ngay khi đức Thế Tôn vừa thọ ký, Ngài ấy thưa rằng:
Thưa đức Thế Tôn, nếu nguyện vọng này của con được viên mãn, thì khi con, với năm chi phần thân thể, đảnh lễ bàn chân của đức Thế Tôn, xin cho mười phương các đức Phật Thế Tôn, nhiều như số cát sông Hằng, đồng thanh thọ ký cho con, và xin cho một cơn mưa hoa lài sumanā đổ xuống.
Khi thiện nam tử Đại Thế Chí, một bậc thiện nhân, đã thực hiện đảnh lễ bàn chân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, bằng toàn thân với năm chi phần sát đất, thì lúc ấy, trong các cõi Phật ở mười phương, nhiều như số cát sông Hằng, Ngài ấy đã được các đức Phật Thế Tôn, nhiều như số cát sông Hằng thọ ký. Và đại địa liền chấn động theo sáu cách. Và một cơn mưa hoa lài sumanā từ trời rơi xuống.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói rằng:
Hãy đứng dậy này Bậc Đại Lực,
Công đức mạnh mẽ ông đã được,
Các Thầy Dẫn Đường Của Thế Gian,
Trong mười phương cùng lúc thọ ký.
Đại địa chấn động theo sáu cách,
Trời mưa hoa lài sumanā,
Ông sẽ là người rất cao quý,
Giữa Phạm Thiên, chư Thiên, loài người.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho Bồ Tát Mañjuśrī - Văn Thù Sư Lợi
Lúc bấy giờ, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, là đại thần tư tế tối cao, đã gọi vị vương tử thứ ba có tên là Indragaṇa, và nói rằng:
Này thiện nam tử, ông hãy tùy hỷ hạnh bố thí lớn. Những gì là điều thiện mà ông đã tích lũy được, hãy đem tất cả hồi hướng cho mục đích hoá độ chúng sinh và sự chứng đắc Trí Toàn Tri, và hãy phát khởi tâm nguyện đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, vương tử Indragaṇa chắp tay cung kính trước mặt đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, và thưa rằng:
Thưa đức Thế Tôn, những gì mà con đã cúng dường đầy đủ các vật dụng, cùng với đại chúng Tỳ-kheo, và tất cả các lối sống thiện mà con đã thực hành bằng thân, lời nói và ý nghĩ, cùng với phước đức phát khởi từ sự hoan hỷ tùy hỷ, tất cả những điều ấy, con xin hồi hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nhưng, con không mong sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tại một cõi Phật bị ô nhiễm, cũng không mong muốn đạt được sự giác ngộ một cách quá nhanh chóng. Chừng nào mà con chưa chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì chừng đó, con sẽ thực hành lối sống Bồ Tát, và nguyện được gặp vô lượng vô biên các đức Phật Thế Tôn trong các thế giới khác khắp mười phương.
Những ai đã được con hướng dẫn đầu tiên vào đường Tỉnh Thức, những ai mà con đã khiến phát khởi tâm Tỉnh Thức, và đã an trụ trong tâm ấy, những ai mà con đã dẫn dắt, làm cho an trú, làm cho kiên cố trong các Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia (pāramitā) và đang thực hành lối sống Bồ Tát, thì con nguyện dùng thiên nhãn để thấy họ, và thấy các đức Phật Thế Tôn đang thuyết pháp, trong vô số thế giới nhiều như các hạt hạ lượng tử trong Hằng Hà Sa số cõi Phật, chính tại nơi đó, những người đã được con hướng dẫn vào đường Tỉnh Thức, con đều có thể thấy hết họ.
Như vậy, trong khi thực hành lối sống Bồ Tát, con sẽ làm các công hạnh của Phật. Và con nguyện tiếp tục con đường Bồ Tát, trong khi đang thanh tịnh hóa các tâm niệm của chúng sinh.
Bất kỳ chúng sinh nào sinh về cõi Phật của con, họ đều sẽ trở thành những bậc có phẩm tính giống như chư thiên trong cõi Phạm thiên.
Và con sẽ hoàn toàn thanh tịnh hóa và trang nghiêm công đức cho cõi Phật của mình, sao cho một cõi Phật của con sẽ rộng lớn và bao hàm toàn bộ Hằng Hà Sa số 3000 đại thiên thế giới (3000 đại thiên thế giới tương đương với 3000 tỷ thiên hà).
Và nơi cõi Phật ấy, từ đỉnh cao nhất của hữu tình giới là cõi trời Hữu Đảnh bhavāgra cho đến biên giới xung quanh, tất cả đều được cấu thành từ nhiều loại báu vật, và được trang trí bằng vô số châu báu khác nhau.
Toàn thể mặt đất trong cõi Phật ấy đều được tạo thành bằng lưu ly thanh tịnh, và đại địa không còn dơ uế, không còn cát bụi, đá, sỏi.
Tại cõi Phật ấy, không hề có khái niệm về cộng đồng người nữ, tình dục, mang thai và sinh sản. Tất cả chúng sinh đều là hóa sinh, không có ai cần dùng loại thực phẩm thô, bằng cách ăn tường miếng nhỏ như thức ăn nhai nuốt. Tất cả chúng sinh ở đó đều thọ dụng bằng thức ăn là hỷ lạc và vị của chánh pháp.
Tại cõi Phật ấy, không có khái niệm về Thanh Văn hay Độc Giác Phật. Cõi Phật ấy là nơi thanh tịnh tuyệt đối, chỉ dành cho các vị chúng sinh tỉnh thức, là các vị Bồ Tát thanh tịnh, đã loại trừ hoàn toàn mọi chướng ngại, cấu nhiễm, và sân hận, các bậc hành trì lối sống phạm hạnh thuần tịnh tinh khiết.
Tất cả các vị Bồ Tát tại đó đều hiện thân với đầu cạo trọc và mặc y vàng kā-ṣā. Ngay khi họ hiện thân, liền phát ra ánh sáng lớn. Trên tay phải của họ, một bình bát báu đầy đủ các vị cam lộ khác nhau sẽ hiện ra.
Ngay lúc mới xuất hiện, họ liền có được một ký ức như sau:
“Thật không xứng đáng nếu chúng ta còn phải ăn uống bằng thức ăn thô, ăn từng miếng nhỏ như thức ăn nhai nuốt. Thà rằng chúng ta, đến các thế giới khác, mang loại thức ăn này để dâng cúng các đức Phật Thế Tôn, cũng như cúng dường các Thanh Văn của đức Phật và chúng sinh đau khổ, hoặc đi đến cảnh giới ngạ quỷ để cứu độ các chúng sinh đang bị thiêu đốt bởi đói khát.”
Ngay lúc phát khởi tâm ấy, các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát sẽ chứng đắc một chánh định samādhi gọi là “Lối sống không thể nghĩ bàn” (acintya-cāritra-vatī).
Nhờ chứng đắc được chánh định samādhi ấy, các vị Bồ Tát có thể đi đến các cõi Phật không thể đếm được, ở mười phương, để cứu giúp những người chưa lương thiện, chưa hiền đức. Họ sẽ mang theo các loại thức ăn ấy để dâng cúng các đức Phật Thế Tôn đang trụ thế và hóa độ chúng sinh, cũng như các vị Thanh Văn và những chúng sinh khác. Sau khi cúng dường bằng niềm hỷ lạc, thực hành thuyết pháp, nhờ vào công đức tu tập đã tích lũy từ trước, các vị ấy sẽ quay trở về cõi Phật của mình. Cũng như thế, các loại y phục bằng châu báu sẽ được mang về từ các cõi khác về cõi Phật của mình, nhờ công đức tu tập từ trước, rồi dùng để đắp lên nhau. Tất cả những gì trong cõi Phật ấy mà các vị Bồ Tát dùng để hưởng thụ và sử dụng, thì tất cả những điều đó sẽ được chia sẻ chung với các đức Phật, các vị Thanh Văn và những chúng sinh khác trong mười phương, rồi sau đó mới tự mình thọ dụng.
Cõi Phật ấy hoàn toàn không có tám điều bất lợi, đó là địa ngục; quỷ đói, súc sinh; biên địa man rợ; bệnh lâu ngày, tật nguyền; tà kiến; không gặp Phật; câm điếc; sinh vào cõi trời Dục Giới và Vô Sắc Giới, đắm chìm trong lạc thú, định sâu, không khởi tâm cầu pháp. Tại nơi đó, không hề có âm thanh của khổ đau, không có âm thanh của việc tiếp nhận giới luật, cũng không có cả âm thanh của sự sám hối và xả giới.
Cõi Phật ấy sẽ được trang nghiêm bằng hàng trăm ngàn loại châu báu khác nhau. Nó được tô điểm bằng vô số châu báu, và tỏa sáng như những viên ngọc ma-ni hiện rõ trước mắt. Những viên ngọc ma-ni chưa từng thấy hay chưa từng nghe trong mười phương, tất cả sẽ xuất hiện và hiện hữu. Đối với những viên ngọc ma-ni ấy, chỉ để gọi tên từng cái thôi, thì dù trải qua hàng triệu năm, vẫn chưa thể kể hết.
Vị Bồ Tát nào mong cầu được thấy một cõi Phật hoàn toàn bằng vàng, thì đối với vị ấy cõi Phật đó thật sự hiện diện bằng vàng. Ai mong muốn thấy một cõi Phật làm bằng bạc, thì sẽ thấy được đúng cõi Phật ấy bằng bạc, nhưng điều đó không khiến cho cõi Phật bằng vàng bị mất đi.
Nếu có vị Bồ Tát nào mong cầu được thấy cõi Phật ấy được làm bằng pha lê, bằng lưu ly, bằng ngọc lục bảo trong lòng đá, bằng hồng ngọc, bằng châu báu Musāla và Galva, hoặc với các chất liệu như thế, thì cõi Phật đó sẽ đúng như họ mong muốn.
Nếu vị Bồ Tát nào mong muốn được thấy cõi Phật ấy được tạo thành bằng trầm hương agaru, bằng chiên đàn tagara, bằng lá cây tamāla, hoặc bằng gỗ chiên đàn rắn uragasāra-candana, hoặc bằng gỗ chiên đàn ngưu đầu goṣīrṣa-candana, thì cõi Phật đúng như những gì họ mong muốn. Họ mong muốn như thế nào, về hình dạng hoặc đặc tính ra sao, thì sẽ đúng như thế ấy, được thành tựu đúng như điều mong cầu. Không phải nguyện của người này lại làm giảm đi nguyện của người khác, mà tất cả các nguyện đều được viên mãn.
Và trong cõi Phật ấy, không có khái niệm về mặt trời và mặt trăng. Các vị Bồ Tát trong cõi ấy sẽ tự phát ra ánh sáng. Nếu các vị ấy mong muốn một loại ánh sáng nào khác, thì họ sẽ phát ra đúng ánh sáng ấy, thậm chí chiếu sáng đến hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ cõi Phật.
Trong cõi Phật ấy, không có khái niệm về ngày và đêm, ngoại trừ việc nhận biết thông qua sự nở của hoa.
Không có sự cảm nhận nóng hoặc lạnh, không có bệnh tật, không có mệt mỏi, không có già chết trong cõi Phật ấy. Trừ khi có vị Bồ Tát mong muốn thành tựu Tỉnh thức, thì vị ấy sẽ sinh vào một thế giới khác, sống hết thọ mạng, rồi mới đạt được Tỉnh thức.
Trong cõi Phật ấy, không có cái chết; khi chứng nhập Tối thượng Niết-bàn, đức Như Lai sẽ nhập diệt giữa hư không phía trên.
Tất cả các vật dụng, y phục hay môi trường mà các vị Bồ Tát mong muốn được sử dụng hoặc thọ hưởng, sẽ hiện ra đúng như vậy. Khắp mọi nơi trong cõi Phật, trên bầu trời, sẽ có vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ các loại nhạc cụ thiên giới vang lên.
Từ những nhạc khí ấy, không phát ra bất kỳ âm thanh nào thuộc về ái dục, kích thích dâm dục, mà chỉ phát ra những âm thanh về các ba-la-mật pāramitā đưa đến Bờ Bên Kia, danh hiệu của Phật, của Pháp, của Tăng, và những bài giảng pháp trong Tạng Bồ Tát (bodhisattvapiṭaka). Những vị Bồ Tát theo căn cơ và sự tín tâm riêng biệt, sẽ nghe được những âm thanh thuộc về bản chất đúng như sở nguyện của họ.
Thưa đức Thế Tôn, khi con đang thực hành lối sống Bồ Tát, con đã thấy vô lượng vô biên hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ a-sam-khê các cõi Phật cùng với các công đức trang nghiêm nơi cõi ấy. Tất cả các sự trang nghiêm ấy, các vẻ đẹp tô điểm, các dấu hiệu, các biểu tượng, các nơi chốn, và các lời nguyện lớn – tất cả đều sẽ được đưa vào cõi Phật của con.
Ngoại trừ những trang nghiêm công đức liên quan đến hàng Thanh Văn và Độc Giác Phật và những cõi Phật thuộc loại còn vướng năm sự ô nhiễm: Một là là tham dục, lòng tham muốn các đối tượng khả ái sắc, thanh, hương, vị, xúc, khiến tâm bị cuốn theo khoái lạc giác quan. Hai là là sân hận, tâm oán ghét, ác ý, mong hại người hay vật, trạng thái tân bất mãn và xua đuổi. Ba là hôn trầm, thuỵ miên, tâm trì trệ, uể oải, lười biếng, thân tâm chìm đắm trong sự mờ tối, thiếu tinh tấn. Bốn là trạo cử, hối quá, tâm xao động, phóng dật không yên, hối hận về việc đã làm hay chưa làm, khiến mất định tĩnh. Và năm là nghi, tâm nghi ngờ về chân lý, về Tam Bảo, về con đường tu tập, làm gián đoạn sự tinh tấn.
Trong cõi Phật ấy, không hề có địa ngục, súc sinh, hay ngạ quỷ, không có núi Sumeru, không có các vòng xoáy thiên hà Cakravāḍa hay các vòng xoáy thiên hà lớn Maha-cakravāḍa, không có hố đen, không có hành tinh, núi, đất, cát sỏi đó, cũng không có biển lớn. Cũng không có các loại cây gỗ tầm thường, mà cõi Phật ấy sẽ đầy dẫy các loại cây siêu việt của thiên giới. Ngoài ra, cõi ấy còn được phủ kín bằng những loài hoa trời như Mạn-đà-la và Đại Mạn-đà-la. Không có mùi hôi, mà cõi Phật ấy sẽ toả ngát các hương thơm vi diệu.
Tất cả các vị Bồ Tát sinh ra trong cõi ấy đều là những người chỉ tái sinh một đời nữa là thành Phật. Không có một chúng sinh nào trong cõi đó lại bị đọa ra khỏi để tái sinh ở nơi khác, trừ khi vị ấy từ cung trời tuṣita rời xuống, để chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cho đến khi nào con hoàn thành được các hạnh nguyện vĩ đại như vậy, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, con sẽ tiếp tục thực hành hạnh nguyện Bồ Tát. Con sẽ thiết lập một cõi Phật như vậy.
Với các chúng sinh có tâm thanh tịnh như vậy, những vị Bồ Tát chỉ còn một đời là thành Phật, con sẽ làm cho cõi Phật ấy được đầy đủ và thiết lập vững chắc. Trong cõi ấy, sẽ không có một vị Bồ Tát nào mà không phải là người đã được con khuyến phát tâm lần đầu tiên hướng đến Giác ngộ. Tất cả những vị đã từng được con dẫn dắt phát tâm Giác ngộ và đã được an lập trong các Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia, sẽ đều tái sinh vào cõi Phật ấy với tư cách là các vị Bồ Tát.
Ngay tại cõi Phật ấy, con sẽ đưa cõi Phật này vào bên trong, và con sẽ làm cho tất cả những nỗi khổ đau ở tại cõi Phật này đều được dập tắt.
Là một vị Bồ Tát, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, con nguyện thực hiện một công hạnh cao cả như vậy, rồi sau đó con sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ngay trong cõi Phật ấy.
Cây Tỉnh Thức của con sẽ có chu vi rộng bằng 10.000 thế giới hành tinh với đầy đủ bốn đại châu hợp lại, và được gọi là “Cây Trang Nghiêm Rực Rỡ Bảy Loại Bảo Vật” (saptaratna-citra-sandarśanaḥ). Cây Tỉnh Thức ấy sẽ lan tỏa khắp một vùng có chu vi 13.000 thế giới, và toàn thể cõi Phật sẽ được thấm đượm bởi hương thơm và sự vô úy không sợ hãi phát ra từ cây ấy.
Dưới gốc cây ấy, con sẽ thiết lập một tòa Kim Cang được tạo thành từ nhiều loại báu vật, có kích thước rộng bằng 5 thế giới hành tinh với đầy đủ bốn đại châu hợp lại, cao 84 yojanā (1.008km), được gọi là “Đạo Tràng Tỏa Ra Hương Thơm Trí Tuệ Vô Cùng Kỳ Diệu Và Sự Nhẫn Hoàn Toàn Tịch Lặng” (praśama-kṣama-su-vicitra-jñāna-gandha-samavasaraṇam).
Ngay tại gốc cây Tỉnh Thức ấy, trên tòa Kim Cang ấy, con sẽ ngồi xuống, theo tư thế kiết già toàn phần, và ngay trong khoảnh khắc ấy, con sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cho đến khi con nhập Niết-bàn, con sẽ không rời khỏi tư thế kiết già ấy, cũng không đứng dậy khỏi gốc cây Tỉnh Thức.
Ngay khi đang ngồi tại gốc cây Tỉnh Thức trên tòa Kim Cang, con sẽ phái đi những vị hoá thân Phật và Bồ Tát do thần lực biến hiện, đến các cõi Phật khác vượt ngoài khả năng tính đếm. Mỗi một vị Phật ấy sẽ thuyết pháp cho các chúng sinh vốn đã từng kết duyên lành với Ngài từ trước. Nhờ vào công đức tích lũy từ đời trước, các vị ấy sẽ khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, an lập họ trên con đường đó, và đặt họ vào địa vị Không còn thoái chuyển. Cũng như vậy, các vị Bồ Tát do thần lực biến hiện ấy sẽ thực hiện các công hạnh của Bồ Tát.
Khi con đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì trong mười phương và các thế giới khác không thể tính đếm, thân của con sẽ được thấy hiện ra. Đối với những chúng sinh nào mà thân con, được trang nghiêm bằng các tướng tốt, xuất hiện trong nhãn thức của họ, thì tất cả những chúng sinh ấy sẽ chắc chắn đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cho đến tận khi con nhập Niết-bàn, những chúng sinh ấy sẽ không bao giờ rời xa các đức Phật Thế Tôn.
Trong cõi Phật ấy, sẽ không có người nào bị khiếm khuyết các căn giác quan. Và những vị Bồ Tát nào mong muốn được thấy con, dù họ đi đến, xoay chuyển, bước đi, ngồi xuống, hay đứng yên, thì tất cả đều sẽ thấy con. Tất cả các vị Bồ Tát ấy, với tâm kính lễ đức Phật vừa khởi, sẽ thấy con đang ngồi dưới cội cây Tỉnh Thức.
Và bất cứ ai có nghi hoặc về Pháp, thì nhờ việc trực tiếp thấy con, những nghi hoặc ấy sẽ được tiêu trừ, họ sẽ thoát khỏi mọi hoài nghi và sẽ hiểu được nghĩa lý của các lời dạy pháp mà chưa từng được thuyết giảng.
Tuổi thọ của con sẽ là vô lượng vô biên, không thể đo lường được bởi bất cứ ai, trừ phi đó là Bậc có Trí tuệ toàn tri. Và cũng như vậy, các vị Bồ Tát ở trong cõi ấy cũng sẽ là vô lượng vô biên.
Ngay trong khoảnh khắc mà con chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong cõi Phật ấy, thì ngay trong khoảnh khắc đó, các vị Bồ Tát sẽ sinh ra với hình tướng đầu tròn cạo trọc, mặc y kāṣā màu hoại sắc. Cho đến khi con nhập Niết-bàn, trong cõi Phật ấy, sẽ không có một chúng sinh nào có tóc dài hoặc mặc y phục trắng. Tất cả đều sẽ mang hình tướng của bậc Sa-môn thanh tịnh, và cư xử đúng theo hạnh Sa-môn (śramaṇa-pratirūpāḥ).
Khi lời phát nguyện vừa nói ra, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Lành thay, lành thay, này Thiện nam tử! Ông cũng là bậc thông tuệ, rõ ràng minh triết, sáng trí, và đã phát nguyện một cách vô cùng cao quý. Ông là người đầy đủ công đức, và trí tuệ phi thường.
Bởi vì, này thiện nam tử, ông đã vì lợi ích của tất cả chúng sinh mà phát khởi một tuệ mati Tỉnh Thức như vậy, tối thắng, và đáng tán thán. Ông đã đón nhận sự trang nghiêm tối thượng của cõi Phật.
Vì lý do ấy, này thiện nam tử, ông sẽ mang tên là mañjuśrī - Vinh Quang Phước Đức Cao Quý, Văn Thù Sư Lợi - Mỹ Đức - Diệu Cát Tường Bồ Tát.
Ông, này mañjuśrī, vào thời vị lai, sau khi đã vượt qua 2 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp, và bước vào a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ ba, ở phương Nam sẽ có một thế giới tên là śuddha-viraja-sannicaya - Tập Hội Thanh Tịnh Hoàn Toàn Không Ô Nhiễm”. Trong thế giới ấy, thế giới Ta Bà này (sahā-lokadhātuḥ) sẽ được bao hàm trong đó, và cõi Phật ấy sẽ xuất hiện, được thấm nhuần bởi sự trang nghiêm công đức như thế.
Tại nơi ấy, ông, này mañjuśrī, sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và sẽ trở thành một đức Thế Tôn có danh hiệu là samantadarśī - Phổ Kiến, Bậc Thấy Toàn Diện Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Hội chúng Bồ Tát của ông cũng sẽ như thế, và tất cả các nguyện lực này sẽ kết tụ nơi ông, đúng như các nguyện đã được ông phát ra.
Từ đó, trong khi vẫn là một vị Bồ Tát, ông sẽ là người đã từng vun trồng căn lành nơi vô số hàng tỷ cõi Phật, là bậc hoàn toàn thanh tịnh tâm nguyện, và là bậc diệt trừ phiền não. Và những chúng sinh nào nghe được danh hiệu mañjuśrī của ông, thì tất cả mọi nghiệp chướng ngăn che của họ sẽ tiêu trừ, và ông sẽ là người tăng trưởng các thiện căn cho họ.
Bồ Tát mañjuśrīḥ thưa rằng:
Nếu như, thưa đức Thế Tôn, sự viên mãn của nguyện vọng như vậy được thành tựu, như nguyện lớn của con đã phát khởi, thì xin các đức Phật Thế Tôn trong mười phương với số thế giới nhiều như cát sông Hằng, đang an trú, đang duy trì, đang chuyển vận, và đang thuyết giảng giáo pháp vì lợi ích của chúng sinh, hãy thọ ký cho con cũng như vậy. Cũng xin cho vô lượng vô số a-sam-khê cõi Phật đều chấn động.
Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được an trụ trong trạng thái an lạc như vậy, giống như một vị Bồ Tát đang nhập vào cảnh giới trang nghiêm được thành tựu từ niềm vui của thiền định bậc hai. Nguyện cho từ vô lượng vô biên a-sam-khê các cõi Phật trời mưa những hoa mạn-đà-la thiên giới.
Và từ những hoa mạn-đà-la ấy, xin vang vọng những âm thanh như thế, cụ thể là: âm thanh xưng tán Phật, âm thanh thuyết Pháp, âm thanh tán thán Tăng, âm thanh các Ba-la-mật pāramitā đưa đến Bờ Bên Kia, và âm thanh về các sức mạnh và trí toàn giác siêu việt đều cùng phát ra.
Và khi con đảnh lễ đôi chân của đức Thế Tôn bằng thân năm điểm sát đất, ngay lúc đó, những điềm lành như vậy sẽ xuất hiện.
Và khi thân của Bồ Tát mañjuśri dưới hình dạng một vị thiếu niên đồng tử, vừa đảnh lễ nơi chân đức Thế Tôn, thì ngay khoảnh khắc ấy, vô lượng vô biên a-sam-khê cõi Phật đều chấn động, những hoa trời mạn-đà-la rơi xuống như mưa, và tất cả chúng sinh đều được an trụ trong niềm an lạc như thế, đúng như nguyện lớn đã phát ra.
Những vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ở các cõi Phật ấy, khi đang nghe Pháp từ các đức Phật Thế Tôn, liền thưa hỏi các đức Phật Thế Tôn ấy rằng: “Nguyên nhân là gì, và duyên là gì khiến những điềm lành như vậy phát sinh?”
Và các đức Phật Thế Tôn ấy đã thọ ký cho Bồ Tát mañjuśri, với hình dạng là một thiếu niên đồng tử, rằng ngại sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói rằng:
Hãy đứng dậy, Bậc Trí Rộng Lớn,
Bậc có Tuệ Mati Tối Thắng,
Đã được các Lãnh Đạo Thế Gian,
Khắp mười phương thọ ký cho ông.
Đại địa chấn động theo sáu cách,
Các chúng sinh đã được no đủ,
Và họ đã trở nên hạnh phúc,
Hoa trời đã như mưa rơi xuống,
Ông sẽ trở thành một đức Phật,
Tại cõi Phật vĩ đại như vậy.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho Bồ Tát Vajraccheda-prajñāvabhāsaśrī - Ánh Sáng Cát Tường Tuệ Giác Prajñā Kim Cương Có Thể Cắt Đứt Tất Cả
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, gọi vị vương tử thứ tư tên là ānaṅgaṇa đến thưa với đức Thế Tôn. Từ đây trở đi, bản nguyện của vị này cũng được phát khởi tương tự như của Bồ Tát mañjuśrī.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn liền tán thán lời phát nguyện của vị này bằng cách nói:
Tốt lắm! Tốt lắm!, này thiện nam tử, ông hiện đang là một vị Bồ Tát. Ông sẽ phá tan những ngọn núi phiền não của vô lượng vô số a-sam-khê chúng sinh, sẽ thực hiện các công hạnh của Phật, và sau đó sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Do vậy, này thiện nam tử, ông sẽ mang danh hiệu là Bồ Tát Vajraccheda-prajñāvabhāsaśrī — nghĩa là Ánh Sáng Cát Tường Tuệ Giác Prajñā Kim Cương Có Thể Cắt Đứt Tất Cả.
Ông, này Ánh Sáng Tuệ Giác Prajñā Kim Cương Có Thể Cắt Đứt Tất Cả, vào thời vị lai, trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, đến khi bước vào a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, ở phương Đông, vượt qua số cõi Phật nhiều bằng số hạt hạ lượng tử của 10 Hằng Hà Sa cõi Phật, lúc bấy giờ, thế giới ấy có tên là Animiṣā - Không Chớp Mắt.
Tại nơi ấy, này thiện nam tử, ông sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ông sẽ trở thành một Đức Thế Tôn hiệu là Samantabhadra - Phổ Hiền, Bậc Hiền Thiện Toàn Diện Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Cõi Phật của ông cũng sẽ như vậy, giống như cõi Phật của đức Thế Tôn Phổ Kiến Như Lai, được trang nghiêm bởi vô số công đức thù thắng, đúng như bản nguyện mà ông đã phát khởi.
Ngay sau đó, này thiện nam tử, Bồ Tát Ánh Sáng Tuệ Giác Prajñā Kim Cương Có Thể Cắt Đứt Tất Cả, được đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai thọ ký về việc sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, khi ấy, từ giữa hư không, vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chư thiên liền mưa xuống những lời tán thán “Lành thay!” và rắc xuống bột hương trầm thủy đầu rắn adurgośīrṣa-uragasāra-candana và trầm hương ngũ phần agarutamāla-cūrṇa.
Khi ấy, Ngài nói rằng:
Nếu như thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nguyện vọng của con như thế được thành tựu trọn vẹn, thì khi con đảnh lễ đức Thế Tôn bằng toàn thân năm chi sát đất, nguyện cho các cõi thế giới, nhiều như số hạt cát của sông Hằng, đều tỏa ngát hương thơm thù thắng của thiên giới siêu việt thế gian. Và những chúng sinh nào sinh ra trong các thế giới ấy – dù là ở địa ngục, loài súc sinh, trong cõi âm Diêm Ma, chư thiên hay loài người – tất cả những chúng sinh ấy đều sẽ ngửi được mùi hương ấy. Khi ấy, mọi bệnh tật nơi thân, đau đớn nơi thân, bệnh tật nơi tâm và khổ đau nơi tâm của họ, đều sẽ được tiêu trừ, lắng dịu, cho đến khi đầu con đảnh lễ chạm đến mặt đất.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bồ Tát có danh hiệu là Ánh Sáng Tuệ Giác Prajñā Kim Cương Có Thể Cắt Đứt Tất Cả, liền đảnh lễ đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng thân mình theo nghi thức năm năm phần thân thể chạm đất, với đầu, hai tay, và hai gối.
Ngay khi ấy, các thế giới nhiều như số hạt cát sông Hằng, liền trở nên trong sáng, hiển hiện nhờ vào mùi hương thù thắng siêu việt, tối thắng từ thiên giới. Tất cả các chúng sinh ở các thế giới ấy, bệnh nơi thân, bệnh nơi tâm, khổ đau nơi thân, khổ đau nơi tâm đều được lắng dịu, và hoàn toàn được an tĩnh, trở lại trạng thái lặng yên rất sâu.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Hãy đứng dậy, Kim Cang Phá Vỡ,
Hương thơm ông sáng rực muôn cõi.
Ông đem lại an lạc chúng sinh,
Ông sẽ thành cha lành thù thắng,
Bậc cao quý nhất trong thế gian.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho Bồ Tát Gaganamudra - Ấn Hư Không - đức Thế Tôn Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử liền gọi người con trai thứ năm của đức vua, tên là Abhaya – Vô Úy.
Phần tiếp theo giống như các nguyện trước của Bồ Tát mañjuśrī và Bồ Tát Vajraccheda-prajñāvabhāsaśrī, rằng:
Không chỉ trong cõi Phật ô trược này, con mới mong đạt được Tỉnh thức, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn. Mà ở tại cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh, không có địa ngục, không có loài súc sinh, không có các cõi thống khổ như ngạ quỷ và cõi địa ngục yama.
Ở nơi ấy, mặt đất được làm bằng lưu ly màu xanh, và trải rộng mênh mông, giống như được mô tả trong cõi Phật thuộc thế giới tên là Padmā - Liên Hoa, các công đức trang nghiêm đã được nói đến như trong Phẩm Chuyển Bánh Xe Chánh Pháp mở đầu Pháp hội giảng về Hoa Sen Trắng Puṇḍarīka Đại Bi Thanh Tịnh này.
Ngay khi phát nguyện xong, vương tử Abhaya đặt một đoá hoa sen padma trước mặt đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, rồi thưa rằng:
Nếu như, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nguyện vọng của con như vậy được viên mãn, thì con nhờ vào thần lực của đức Thế Tôn, sẽ chứng đắc chánh định samādhi có tên là Sự Thấy Trang Nghiêm (darśanavyūha).
Nhờ vào chánh định samādhi ấy, ngay trước mặt đức Thế Tôn, con có thể làm cho một trận mưa hoa bằng các đoá hoa sen padma có kích thước bằng bánh xe ngựa, khắp các thế giới nhiều bằng số hạt hạ lượng tử của Hằng Hà Sa cõi Phật, và chúng con có thể thấy được điềm lành ấy.
Ngay khi lời nguyện vừa được phát ra, Ngài liền chứng đắc chánh định samādhi Sự Thấy Trang Nghiêm, và nhờ vào thần lực của chư Phật, trong mười phương, tại các thế giới nhiều bằng số hạt hạ lượng tử của Hằng Hà Sa cõi Phật, một trận mưa hoa sen padma đã tuôn rơi, với các đoá sen có kích thước như bánh xe ngựa, có số lượng nhiều như các hạt hạ lượng tử của các cõi Phật.
Khi thấy cảnh tượng đó, vương tử Abhaya liền sinh khởi lòng hoan hỷ và hân hoan tột bậc, và trở nên vô cùng hoan hỷ.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói rằng:
Này thiện nam tử, lời nguyện mà ông đã phát thật là tốt đẹp, và cõi Phật mà ông đã chọn lấy cũng tốt đẹp. Ông lại rất nhanh chóng đạt được chánh định samādhi, và do lời chân thật mà đã làm mưa rơi xuống hoa sen padma.
Vương tử Abhaya nói rằng:
Nếu như sự viên mãn nguyện ước của con về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác sẽ thành tựu, thì những đoá hoa sen padmā này hãy đứng yên ở trên hư không và như vậy, khi đang ở trên hư không, hãy rơi xuống.
Đức Thế Tôn nói rằng:
Rất nhanh, này thiện nam tử, bầu trời đã được in dấu bằng những đoá hoa sen padma. Vì vậy, này thiện nam tử, ông hãy được gọi là Gaganamudra - Ấn Hư Không. Trong tương lai, khi đã trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, và nhập vào a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, ở phương Đông Nam, cách đây 1.000 tỷ Hằng Hà Sa cõi Phật, sẽ có một thế giới tên là Padmā - Liên Hoa. Ở đó, ông sẽ thành tựu Tỉnh thức, và sẽ thành một đức Thế Tôn hiệu là Padmottara - Hoa Sen Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn, với hội chúng Bồ Tát thanh tịnh không thể nghĩ bàn. Tuổi thọ của ông sẽ là vô lượng, và ông sẽ đạt được tất cả những công đức này, chính là lời nguyện đã được lập.
Khi ấy, Bồ Tát Ấn Hư Không liền đảnh lễ với năm chi phần thân thể sát đất dưới chân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói rằng:
Ông sẽ là người đem lợi ích,
Cho thế gian, người làm lắng dịu,
Những ô nhiễm khổ đau phiền não,
Là người mang đầy đủ công đức,
Nhiều như bụi báu của cõi Phật,
Sẽ chứng được Tỉnh thức Tối Thượng,
Giống như Bậc Chiến Thắng đời trước.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho Bồ Tát Vegavairocana - Sức Mạnh Chuyển Động Tốc Lực Mặt Trời Toàn Giác Vairocana
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử đã mời gọi vị vương tử thứ sáu có tên là Ambara.
Lời phát nguyện của vương tử Ambara thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tại cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh, với sự trang nghiêm công đức cũng giống như lời phát nguyện của Bồ Tát Ấn Hư Không.
Ngay khi phát nguyện xong, vương tử Ambara thưa với đức Thế Tôn rằng:
Nếu như nguyện ước như thế này của con được viên mãn, thưa đức Thế Tôn, thì ở mười phương, trong các thế giới nhiều như số cát sông Hằng, nơi tất cả hư không hãy hiện ra những lọng báu làm bằng bảy loại báu, che phủ bằng lưới vàng và trang nghiêm bằng các chuông làm từ bảy loại báu.
Từ những chuông lọng ấy sẽ vang ra âm thanh như tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tăng, tiếng Ba-la-mật pāramitā đưa đến Bờ Bên Kia, tiếng Sức mạnh, tiếng Thần thông, tiếng Vô úy biện tài. Và tất cả chúng sinh trong các thế giới ấy sẽ nghe được âm thanh như thế, nghe rồi tất cả sẽ phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và những chúng sinh ở đây đã từng phát khởi tâm Tỉnh thức thì sẽ trở thành bậc bất thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ngay sau khi lời này được nói ra, thì ở mười phương, trong các thế giới nhiều như số cát sông Hằng, từ khắp bầu trời, các âm thanh như thế liền phát ra.
Do oai lực của đức Thế Tôn, vương tử Ambara tự mình thấy rõ, rồi lại nói như vầy:
Nếu như nguyện ước như thế này của con được viên mãn, thưa bậc Hiền giả, thưa đức Thế Tôn, giống như lời nguyện con đã lập, thì con sẽ ở trước đức Thế Tôn mà đạt được chánh định samādhi tên là Trí Tuệ Mặt Trời Toàn Giác Vairocana (jñāna-vairocana), nhờ đó các thiện pháp của con được tăng trưởng. Và khi đã được chánh định samādhi, con mong đức Thế Tôn thọ ký cho con.
Do oai lực của đức Thế Tôn, vương tử Ambara đã thành tựu chánh định samādhi Trí Tuệ Mặt Trời Toàn Giác Vairocana.
Đức Thế Tôn nói rằng:
Lành thay, lành thay, này thiện nam tử, lời nguyện mà ông đã lập thật cao cả; do vậy, nhờ công đức tuôn chảy này, mà ở mười phương, trong Hằng Hà Sa các cõi Phật, đã có vô số cõi Phật được thúc đẩy từ hàng trăm ngàn loại âm thanh du dương. Vì vậy, này thiện nam tử, ông sẽ có tên là Vegavairocana - Sức Mạnh Chuyển Động Tốc Lực Mặt Trời Toàn Giác Vairocana và hãy trở thành như vậy. Này Sức Mạnh Chuyển Động Tốc Lực Mặt Trời Toàn Giác Vairocana, vào tương lai, khi đã trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, và bước vào a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, ở phương Đông, cách đây 1 Hằng Hà Sa số thế giới, sẽ có một thế giới tên là Ādityasomā - Mặt Trời Và Mặt Trăng. Ở đó, ông sẽ thành tựu Tỉnh thức, và sẽ thành đức Thế Tôn hiệu là Dharmavaśavartīśvararāja - Vị Vua Chúa Tể Tối Cao Vận Hành Kiểm Soát Chánh Pháp Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Ngay khi được đức Thế Tôn thọ ký, Bồ Tát Sức Mạnh Chuyển Động Tốc Lực Mặt Trời Toàn Giác Vairocana đã dùng năm chi phần thân thể đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai.
Khi ấy, đức Thế Tôn nói rằng:
Hãy đứng dậy, này bậc hạnh lành,
Bậc mến công đức, tâm điều phục,
Vì chúng sinh, đại bi mãnh liệt,
Hãy cứu vớt chúng sinh ra khỏi,
Thoát biển khổ luân hồi sinh tử,
Cho đến khi ông chưa giác ngộ,
Đạt Tỉnh thức Toàn Giác Tối Thượng.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho Bồ Tát Siṃha-gandha - Hương Sư Tử
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử đã mời gọi vị vương tử thứ bảy tên là Aṅgaja.
Khi ấy, vương tử Aṅgaja đứng trước đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, và phát nguyện rằng:
Thưa đức Thế Tôn, không phải ở cõi Phật uế trược này mà con sẽ thành tựu Tỉnh thức, mà ở nơi không có địa ngục, không có loài súc sinh, không có cảnh giới Ya-ma được nhận biết; không có tình dục, sinh sản và làm mẹ, cũng không có việc thọ thân trong thai mẹ; không có núi Sumeru, không có vòng xoáy thiên hà cakravāḍa và vòng xoáy thiên hà lớn cakravāḍā, không có hành tinh đất đá, không có các vùng gồ ghề, các bãi sỏi đá nhọn, rừng đầy gai góc hiểm trở, không có cây gỗ, không có biển lớn; cũng không có mặt trời và mặt trăng, không có hình dạng các vì sao, không có ngày và đêm, không có bóng tối; chúng sinh cũng không có tiểu tiện, đại tiện, khạc nhổ, hỉ mũi, không có mùi hôi từ mồ hôi thân thể, không có sự mệt mỏi của thân, cũng không có mệt mỏi của tâm. Không có đất bụi; toàn bộ mặt đất ở đó đều bằng châu báu và được trang nghiêm với vô số trăm ngàn châu báu.
Cõi Phật ấy được rải đầy hoa Mạn-đà-la và hoa Đại Mạn-đà-la, lại được trang nghiêm bởi các cây báu với nhiều loại châu báu khác nhau. Những cây báu ấy được trang hoàng bằng nhiều loại lưới châu báu, nhiều loại vải báu, nhiều loại y phục báu, nhiều loại tràng hoa báu, nhiều loại đồ trang sức báu; được trang trí bằng nhiều loại vòng hoa, nhiều loại nhạc cụ, nhiều loại bình báu, và nhiều loại hoa khác nhau. Ở đó không có đêm, ngoại trừ khi hoa khép lại và các nhạc cụ tấu lên nhẹ nhàng; và khi hoa khép lại thì các vị Bồ Tát quay trở về. Những vị Bồ Tát ở đó sẽ đạt được chánh định samādhi tên là Cái Thấy Trang Nghiêm (darśana-vyūhaṃ), nhờ chánh định samādhi ấy mà có thể thấy các đức Phật Thế Tôn đang an trụ và vận hành giáo hóa trong các thế giới ở mười phương nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật. Ngay lúc đó họ sẽ được thiên nhĩ thanh tịnh, nhờ đó mà nghe được giáo pháp của các đức Phật Thế Tôn đang thuyết pháp ở các cõi Phật nhiều như số hạt hạ lượng tử của thế giới ở mười phương khác. Và những chúng sinh cùng sinh về đó, tất cả đều sẽ có trí nhớ đời trước, và sẽ nhớ lại những số kiếp nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật.
Và những chúng sinh cùng sinh về đó đều sẽ đạt được thiên nhãn như thế, nhờ đó mà thấy khắp mười phương các cõi Phật nhiều như số hạt hạ lượng tử, cùng với các trang nghiêm công đức của cõi Phật.
Những chúng sinh ấy, cùng sinh về đó, tất cả đều có khả năng thiện xảo trí biết được tâm niệm của người khác như thế, nhờ đó chỉ trong một sát-na có thể biết hành vi tâm ý của tất cả chúng sinh trong các cõi Phật nhiều như số hạt hạ lượng tử, cho đến khi Tỉnh thức viên mãn và nhập Niết-bàn. Các chúng sinh ấy sẽ đảnh lễ chánh định samādhi ấy.
Vào lúc bình minh của cuối đêm, bốn phương sẽ thổi những làn gió thơm ngát, đem lại niềm vui, có sự tiếp xúc mềm mại và dễ chịu, khiến cho những hoa ấy nở ra. Và các vị Bồ Tát ấy, sau khi xuất định từ những chánh định samādhi ấy, sẽ đứng dậy từ nhụy hoa đó.
Và họ sẽ đạt được thần thông, chỉ trong một sát-na tâm niệm, có thể đi đến mỗi một phương các cõi Phật nhiều như số hạt hạ lượng tử, đảnh lễ và thân cận cúng dường các đức Phật Thế Tôn đang an trụ và vận hành giáo hóa, rồi sau đó quay trở về. Tại đó, họ sẽ ngồi kiết già trên nhụy của hoa Mạn-đà-la và Đại Mạn-đà-la, quán sát đức Như Lai với tâm ý an lạc nơi pháp. Và bất cứ nơi nào họ ngồi hay chuyển hướng, ở khắp mười phương đều thấy được con. Và bất cứ sự nghi ngờ nào khởi lên nơi các pháp mà các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát mong cầu nhưng chưa thấu đạt, thì tất cả sẽ được tiêu trừ chỉ nhờ thấy và quán sát con. Và bất cứ giáo pháp nào mà các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát mong muốn, thì giáo pháp ấy họ sẽ hiểu rõ chỉ nhờ việc nhìn thấy con. Những chúng sinh ở đó sẽ không có tâm sở hữu và không chấp thủ, ngay cả với thân mạng của chính mình cũng không luyến tiếc. Và tất cả các vị Bồ Tát ở đó đều sẽ là bậc bất thoái chuyển.
Ở đó sẽ không có khái niệm về điều bất thiện, cũng không có việc học giới hay câu chuyện về việc sám hối tội lỗi. Tất cả chúng sinh ở đó đều sẽ đầy đủ 32 tướng đại nhân. Và tất cả đều sẽ có sức mạnh như nārāyaṇa. Và không một chúng sinh nào bị khiếm khuyết các căn giác quan cho đến khi đạt Tỉnh thức và nhập Niết-bàn. Và tất cả chúng sinh ở đó sẽ tái sinh với đầu cạo sạch, mặc y kāṣā vàng mới. Họ sẽ đạt được các chánh định samādhi một cách phân minh và sẽ quy mạng chánh định samādhi cho đến khi thành tựu Tỉnh thức. Và tất cả chúng sinh ở đó đều sẽ là những bậc có gốc lành về sự nhiếp tâm.
Và ở cõi Phật đó sẽ không có sự nhận biết về khổ đau của già và bệnh nơi chúng sinh. Những chúng sinh nào đã đến lúc mãn thọ mạng, thì tất cả sẽ nhập Niết-bàn trong tư thế kiết già, và từ nơi thân mình sẽ phóng ra đại lửa để tiêu thân mình. Gió từ bốn phương sẽ đến mang thân xá lợi các vị Bồ Tát ấy bỏ vào các cõi Phật trống không.
Và những viên ngọc quý maṇi lớn sẽ hiện ra, ví như viên ngọc quý ma-ni chúa tể ánh sáng prabhāsvara của vua Chuyển Luân Thánh Vương. Những chúng sinh nào thấy ánh sáng của viên ngọc quý maṇi ấy, hoặc thấy chính viên ngọc quý maṇi ấy hoặc chạm vào nó, thì tất cả sẽ không còn cảm thọ các khổ đau của địa ngục, súc sinh, và cõi yama cho đến khi thành Tỉnh thức và nhập Niết-bàn. Và họ, sau khi từ đó mạng chung, sẽ sinh vào nơi mà các đức Phật Thế Tôn đang an trụ và vận hành giáo hóa, thuyết pháp cho chúng sinh. Và những chúng sinh ấy, khi sinh về đó, sẽ nghe pháp từ nơi các đức Phật Thế Tôn, và sẽ phát khởi tâm Tỉnh thức. Khi đã phát tâm Tỉnh Thức, họ sẽ là bậc bất thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Không một chúng sinh nào ở cõi Phật của con sẽ chết trong trạng thái tâm không định tĩnh, không do cảm thọ khổ đau, không do sự cách ngăn tâm duy thức với nhau, và không bao giờ sinh vào các nơi bị Ma chi phối. Cho đến khi thành Tỉnh thức, họ sẽ không lìa sự thấy Phật, không lìa sự nghe pháp và sự thân cận Tăng. Và tất cả chúng sinh ở đó sẽ không còn tâm thô bạo, sân hận, tật đố, ganh ghét và bỏn sẻn.
Cõi Phật đó sẽ được thanh tịnh, không có hàng Thanh Văn và Độc Giác Phật, chỉ có các vị Bồ Tát thanh tịnh. Những chúng sinh tái sinh về đó đều có tâm từ ái, tâm nhu hòa, tâm không thù oán, tâm không tội lỗi, tâm an tịnh và tâm định tĩnh.
Và cõi Phật ấy của con sẽ là cõi sáng chói, và sẽ là cõi trang nghiêm với các công đức vĩ đại. Khắp mười phương, từ các thế giới nhiều như số hạt hạ lượng tử của các cõi Phật, đều thấy được con, và hương thơm của con lan tỏa. Và chúng sinh ở đó đều sẽ được thọ hưởng sự an lạc thường hằng. Và ở cõi Phật đó sẽ không nghe thấy tiếng về khổ đau.
Con sẽ thực hành lối sống Bồ Tát, cho đến khi con còn là Bồ Tát và kiến lập một cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh với những sự thành tựu trang nghiêm công đức của cõi Phật như thế. Với những chúng sinh có tâm hoàn toàn thanh tịnh như vậy, con sẽ kiến lập cõi Phật ấy một cách sáng tỏ. Sau đó, con sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tại cõi Phật ấy.
Khi con thành Tỉnh thức, ánh sáng của con sẽ là vô lượng; và trong mười phương, tại các cõi Phật khác nhiều như số hạt hạ lượng tử, thân con được trang nghiêm bởi các tướng hảo sẽ hiện ra.
Những chúng sinh nào thấy con, thì lòng tham của họ sẽ được dập tắt, lòng sân, si, tật đố, mạn, xan tham, và tất cả chướng ngại phiền não sẽ được dập tắt. Tất cả sẽ phát khởi tâm Tỉnh thức; và bất cứ chánh định samādhi hay sức mạnh trì giữ chân lý Dhāraṇī nào mà họ mong muốn, thì khi thấy con, tất cả đều sẽ đạt được.
Những chúng sinh khi phải tái sinh ở địa ngục lạnh, mà thấy con, họ sẽ khởi lên cảm thọ an lạc, và đạt được sự an lạc như của một vị Tỳ-kheo nhập định vào thiền thứ hai. Khi thấy con, họ sẽ được an lạc thù thắng nơi thân, và tất cả sẽ phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau khi từ đó mạng chung, họ sẽ sinh về cõi Phật của con, và ở đó sẽ là bậc không còn thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Những chúng sinh tái sinh ở trong cảnh giới ngạ quỷ, mà thấy con, thì họ sẽ khởi lên cảm thọ an lạc, và đạt được sự an lạc như của một vị Tỳ-kheo nhập định vào thiền thứ hai. Khi thấy con, họ sẽ được an lạc thù thắng nơi thân, và tất cả sẽ phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau khi từ đó mạng chung, họ sẽ sinh về cõi Phật của con, và ở đó sẽ là bậc không còn thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Những chúng sinh tái sinh ở trong các đường súc sinh, mà thấy con, thì họ sẽ khởi lên cảm thọ an lạc, và đạt được sự an lạc như của một vị Tỳ-kheo nhập định vào thiền thứ hai. Khi thấy con, họ sẽ được an lạc thù thắng nơi thân, và tất cả sẽ phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau khi từ đó mạng chung, họ sẽ sinh về cõi Phật của con, và ở đó sẽ là bậc không còn thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Những chúng sinh tái sinh ở trong các cảnh giới chư thiên, mà thấy con, thì họ sẽ khởi lên cảm thọ an lạc, và đạt được sự an lạc như của một vị Tỳ-kheo nhập định vào thiền thứ hai. Khi thấy con, họ sẽ được an lạc thù thắng nơi thân, ánh sáng của họ sẽ chói sáng gấp đôi, và tất cả sẽ phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau khi từ đó mạng chung, họ sẽ sinh về cõi Phật của con, và ở đó sẽ là bậc không còn thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tuổi thọ của con sẽ là vô lượng, không thể bất kỳ ai tính đếm được, ngoại trừ Bậc có Trí Tuệ Toàn Tri.
Khi con đã thành Tỉnh thức, ở mười phương, trong các thế giới khác vô lượng vô biên, các đức Phật Thế Tôn sẽ tuyên dương công đức của con và khiến cho người khác nghe. Những chúng sinh nghe về công đức của con, sẽ hồi hướng căn lành đó về cõi Phật của con; những người ấy, sau khi mãn báo thân, sẽ được sinh về cõi Phật của con, ngoại trừ những người tạo năm tội nghịch, phỉ báng Chánh pháp, hoặc hủy báng bậc Thánh.
Khi con đã thành Tỉnh thức, nếu có những chúng sinh ở các thế giới vô lượng và vô biên, nghe được danh hiệu của con và mong cầu được sinh về cõi Phật của con, thì vào lúc lâm chung, con sẽ hiện đến trước họ, cùng với vô số quyến thuộc, nhập vào chánh định samādhi tên là “Tách Rời Khỏi Hoàn Toàn Bóng Tối U Ám Mờ Mịt” (vitimira), và dùng lời nói khéo léo để làm họ hoan hỷ. Tất cả khổ đau của họ sẽ được dập tắt, nhờ vào niềm hoan hỷ đó, họ sẽ đạt được chánh định samādhi kiên cố không lay chuyển, đạt được pháp nhẫn khiến tâm vững chắc, và sau khi mãn báo thân, sẽ sinh về cõi Phật của con.
Còn những chúng sinh khác ở các cõi Phật khác, không có bảy món báu, nghèo khổ về ba thừa, nghèo khổ về các phước báo trời và người, nghèo khổ về sự tìm cầu thiện pháp, nghèo khổ về ba loại tạo phước, bị nhiễm bởi phi pháp và ái dục, bị chinh phục bởi tham lam bất chính, và bị vây quanh bởi tà pháp, thì vào lúc lâm chung, con sẽ hiện đến trước mặt họ, cùng với vô số quyến thuộc, thuyết pháp cho họ, cho họ thấy cõi Phật của chính họ, và khiến họ phát tâm Tỉnh thức.
Những chúng sinh ấy khi ở trước con sẽ đạt được niềm hoan hỷ và lòng tin thanh tịnh tối thượng, sẽ phát khởi tâm Tỉnh thức. Mọi cảm thọ khổ đau của họ sẽ được dập tắt, họ sẽ đạt được chánh định samādhi “Đèn Mặt Trời” (sūrya-pradīpa), và con sẽ trở thành nguyên nhân diệt trừ si mê của họ. Sau khi mãn báo thân, họ sẽ sinh về cõi Phật của con.
Đức Thế Tôn nói rằng:
Lành thay, lành thay, này thiện nam tử, lời nguyện của ông đã được lập thật thanh tịnh.
Vương tử Aṅgaja thưa:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nếu mong cầu như vậy của con được viên mãn, thì trong mười phương, tại các cõi Phật khác với số lượng nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, hãy cho mưa xuống bột gỗ trầm hương uragasāra. Và những chúng sinh ngửi mùi hương ấy, tất cả đều phát khởi tâm Tỉnh thức.
Và ngay bấy giờ, con sẽ đạt được chánh định samādhi tên là “Ánh Sáng Cao Quý Được Dẫn Dắt Đúng Đắn” (praṇīta-dyutiṃ), nhờ đó con sẽ tự mình thấy.
Này thiện nam tử, khi chánh định samādhi “Ánh Sáng Cao Quý Được Dẫn Dắt Đúng Đắn” được phát khởi, Vương tử Aṅgaja liền tự mình thấy tại các thế giới khác trong mười phương, nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, mưa xuống bột gỗ trầm hương uragasāra. Và trong mười phương, ở mỗi một phương, có vô số chúng sinh đang chắp tay mà trông thấy những điều ấy, tất cả những vị ấy đều phát khởi tâm Tỉnh thức.
Đức Thế Tôn nói rằng:
Này thiện nam tử, trận mưa hương đã trút xuống rất nhanh chóng, và vô số chúng sinh đã được dẫn dắt vào Tỉnh thức. Do đó, này thiện nam tử, ông hãy mang danh hiệu là siṃha-gandha - Hương Sư Tử.
Vào thời kỳ của Hương Sư Tử, trong 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất đã qua, và đã bước vào a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, ở phương trên, từ cõi Phật này, vượt qua số cõi Phật nhiều bằng 42 lần số hạt hạ lượng tử của Hằng Hà Sa cõi Phật, sẽ có một thế giới tên là nīla-gandha-prabhāsa-viraja - Hương Thơm Ánh Sáng Xanh Biếc Thanh Tịnh.
Tại đó, ông, này Hương Sư Tử, sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ông sẽ trở thành đức Thế Tôn có danh hiệu là prabhāsa-virajaḥ-samucchraya-gandheśvara-rāja - Vị Vua Chúa Tể Hương Thơm Hội Tụ Ánh Sáng Thanh Tịnh Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bồ Tát Hương Sư Tử đã đảnh lễ dưới chân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng năm chi phần thân thể sát đất.
Đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói với Bồ Tát Hương Sư Tử rằng:
Hãy đứng dậy, bậc được trời người,
Và A-tu-la cúng dường đảnh lễ,
Ông hãy độ tất cả chúng sinh,
Đang khổ đau trong vòng sinh tử.
Hãy cắt đứt tất cả trói buộc,
Của khổ đau thực tế hiện hữu,
Ông sẽ thành một bậc Thánh nhân,
Giữa thế nhân, là Bậc Chiến thắng.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho Bồ Tát Samantabhadra - Phổ Hiền
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử thỉnh mời vị vương tử thứ tám tên là Amigha - Vô Vân.
Khi ấy vưởng tử Amigha đứng trước đức Thế Tôn và thưa rằng:
Thưa đức Thế Tôn, con khi còn là Bồ Tát ở cõi Phật nhiễm uế, sẽ thực hành lối sống Bồ Tát cho đến khi con kiến lập được 10.000 cõi Phật nhiễm uế trở thành hoàn toàn thanh tịnh giống như cõi Phật Hương Thơm Ánh Sáng Xanh Biếc Thanh Tịnh như của Bồ Tát Hương Sư Tử vừa được thọ ký, thì cõi Phật của con cũng sẽ thành tựu như vậy.
Với những vị Bồ Tát có căn lành không bị tổn giảm, tâm ý hoàn toàn thanh tịnh, khởi hành trên cỗ xe Đại thừa, con sẽ làm cho các cõi Phật ấy hiển bày viên mãn. Sau đó, con sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Con sẽ thực hành lối sống Bồ Tát, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, theo cách mà không vị Bồ Tát nào khác đã từng thực hành.
Bởi vì trong bảy năm này, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, con đã an trụ nơi thanh vắng, một mình, tư duy quán sát, để hoàn toàn thanh tịnh các công đức của Phật Toàn Giác và công đức của Bồ Tát, cùng thanh tịnh hoàn toàn công đức của cõi Phật.
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, với chánh định samādhi Cái Thấy Trang Nghiêm làm phần dẫn nhập, con đã phát khởi, đạt được và tu tập 11.000 chánh định samādhi của Bồ Tát. Đây chính là lối sống Bồ Tát của con khi còn là Bồ Tát.
Những đức Phật Thế Tôn ở mười phương, trong các thế giới khác vô lượng vô biên, đang trụ trì, đang giáo hoá vì lợi ích và an lạc của chúng sinh, và thuyết pháp, cùng những cõi Phật được trang nghiêm bằng các lọng báu cao ngất của các đấng Chiến Thắng, con sẽ thấy và tuần tự du hành, và đi đến cúng dường các Ngài.
Với chánh định samādhi này, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, con sẽ thấy các đức Phật Thế Tôn nhiều như số hạt hạ lượng tử, được vây quanh bởi hội chúng Bồ Tát và Thanh Văn. Con sẽ đảnh lễ từng vị bằng chính thân mình nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, nhờ vào sức mạnh của chánh định samādhi Không Bám Vào (aniśrita-samādhi). Và với mỗi thân, con sẽ cúng dường từng đức Phật bằng các bảo vật vô thượng đủ loại, hoa vô thượng đủ loại, hương, tràng hoa, bột hương, dầu xoa, âm nhạc và tất cả các sự trang nghiêm vô thượng.
Và trong một cõi Phật, con sẽ trải qua những kiếp nhiều như số cát trong đại dương, cho đến khi con bằng sức mạnh của chánh định samādhi quán sát toàn thân chư Phật trong một sát-na, biết rõ cảnh giới Toàn Giác của mỗi vị Phật nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật.
Với chánh định samādhi Kho Tàng Công Đức (guṇākara-samādhi), thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, con sẽ cúng dường từng vị Phật bằng những vật cúng dường vô thượng nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật.
Với chánh định samādhi Không Chớp Mắt (animiṣa-samādhi), thưa đức Thế Tôn, con sẽ thấy tất cả các cõi Phật đầy đủ các đức Phật nhiều như số ý niệm nhỏ như hạt bụi trong tâm thức.
Với chánh định samādhi Không Đối Nghịch (araṇā-samādhi), thưa đức Thế Tôn, trong một sát-na tâm, con sẽ thấy nơi tất cả các cõi Phật những vị Bồ Tát thuộc ba đời — quá khứ, vị lai, hiện tại — cùng sự trang nghiêm công đức của các cõi Phật.
Với chánh định samādhi Thủ Lăng Nghiêm - Sự Tiến Bước Anh Hùng (śūraṅgama-samādhi), thưa đức Thế Tôn, con sẽ vào các địa ngục, hiện ra thân tướng như chúng sinh trong địa ngục, để thuyết pháp cho chúng sinh trong địa ngục ấy, khiến họ phát tâm giác ngộ. Sau đó, con sẽ khiến những chúng sinh ấy phát tâm Tỉnh thức, rồi khi họ mạng chung sẽ sinh vào cùng trú xứ của loài người, nơi có các đức Phật Thế Tôn, và sẽ nghe pháp từ nơi các đức Phật Thế Tôn ấy, an trụ nơi địa vị Không còn Thoái chuyển.
Cũng như vậy, đối với loài súc sinh, ngạ quỷ, dạ-xoa, la-sát, a-tu-la, long thần, khẩn-na-la và mahoraga, quỷ piśāca, quỷ pūtana, quỷ kaṭapūtana, người hạ tiện caṇḍāla, thương nhân và kỹ nữ. Thưa đức Thế Tôn, con cũng sẽ tùy theo nơi sinh của các chúng sinh ấy, tùy theo thân tướng mà họ nhận lấy, và tùy theo nghiệp và duyên mà họ cảm thọ sự an vui hay khổ đau.
Và đối với những chúng sinh đang gắn bó trong các nơi hành nghề thủ công hay lao động sinh sống, con sẽ hiện ra thân tướng tương ứng với họ và biểu hiện sự tập trung duy thức chuyên cần trong chính các công việc ở những nơi ấy. Với ngôn ngữ và âm thanh thích hợp, con sẽ làm hoan hỷ tâm của họ, thuyết pháp, khiến họ phát tâm, dẫn dắt, và an trụ nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và khiến họ đạt đến địa vị Không còn thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, con sẽ hành lối sống Bồ Tát sao cho trong tất cả 10.000 cõi Phật, con có thể hoàn toàn thanh tịnh hóa dòng tâm của tất cả chúng sinh đến mức họ không còn tạo ra các phiền não đối với các nghiệp đã làm trong quá khứ, và ngay cả một chúng sinh cũng không bị bốn ma, bao gồm Ma của 5 uẩn, Ma của phiền não, Ma của cái chết, Ma của cõi trời biết rõ đường đi của dòng tâm ấy.
Khi đó, con sẽ kiến lập 10.000 cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh như vậy, sao cho các sự trang nghiêm công đức cõi Phật giống như ở cõi Phật Hương Thơm Ánh Sáng Xanh Biếc Thanh Tịnh như của Bồ Tát Hương Sư Tử vừa được thọ ký sẽ thành đức Thế Tôn Vị Vua Chúa Tể Hương Thơm Hội Tụ Ánh Sáng Thanh Tịnh Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.
Như vậy, con sẽ thực hiện lời nguyện cho cõi Phật của riêng mình và cho hội chúng của mình, giống như Bồ Tát Hương Sư Tử đã phát nguyện.
Nếu, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn tâm nguyện của con được viên mãn như thế này, thì trong 10.000 cõi Phật, mọi khổ đau của chúng sinh đều được lắng dịu, tâm của tất cả họ đều trở nên nhu hòa, thành tựu tâm khéo léo, và mỗi người khi ở tại hành tinh đủ bốn châu thiên hạ đều được thấy các đức Phật.
Và đối với những chúng sinh ấy, những bảo vật đủ loại, hoa, hương, phấn, sáp, lọng phướn cờ báu sẽ hiện ra, để họ có thể cúng dường các đức Phật ấy, và phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Còn con, thưa đức Thế Tôn, nhờ sức mạnh của chánh định samādhi Cái Thấy Trang Nghiêm mà tự mình thấy, và ngay khi lời nguyện này được phát ra, con liền thấy đúng như lời nguyện đã phát.
Khi ấy, đức Thế Tôn nói rằng:
Lành thay, lành thay, này thiện nam tử! Chính ông, này thiện nam tử, sẽ kiến lập 10.000 cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh ở khắp cả các phương lẫn cõi Phật của riêng mình. Ông cũng sẽ hoàn toàn thanh tịnh hóa dòng tâm của vô lượng vô số chúng sinh.
Như vậy, ông sẽ khởi lòng hân hoan trong việc cúng dường vô lượng vô số các đức Phật Thế Tôn ở vô lượng vô số cõi Phật. Vì thế, này thiện nam tử, hãy mang tên là Samantabhadra - Phổ Hiền ().
Trong tương lai, sau khi đã trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, và đã bước vào a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, ở phương Bắc, từ cõi Phật này vượt qua số cõi Phật nhiều bằng số hạt hạ lượng tử của 60 Hằng Hà Sa cõi Phật, sẽ có một thế giới tên là Jñāna-tāpasa-viśuddha-guṇā - Trí Tuệ Bậc Tinh Tấn Tu Hành Nhiệt Tâm Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh.
Tại đó, ông sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có danh hiệu là Jñāna-vajra-vijṛmbhita-īśvara-ketu - Trí Tuệ Kim Cang Vươn Lên Ngọn Cờ Chúa Tể Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Bấy giờ, này thiện nam tử, Bồ Tát Phổ Hiền Đại Bồ Tát, liền gieo năm chi phần thân thể sát đất, đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng trán mình.
Khi ấy, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Hãy đứng dậy, bậc thật đáng kính,
Giữa chư thiên và cả loài người,
Bậc giữ giới hoàn toàn thanh tịnh,
Bậc có tâm thuần thiện điều phục!
Sau khi thanh tịnh hóa dòng tâm,
Của chúng sinh 10 ngàn cõi Phật,
Hãy giữ vững chí nguyện như thế,
Hãy cứu độ tất cả chúng sinh,
Thoát ra khỏi dòng sông phiền não.
Ông sẽ thành ngọn đuốc trí tuệ,
Thắp sáng trong trong thế giới chư Phật.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho 10.000 Bồ Tát
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vào thời điểm ấy, có 10.000 long vương đồng thanh thưa rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, chúng con sẽ thành những đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác ở các cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh, những cõi được kiến lập bởi Bồ Tát Phổ Hiền Đại Bồ Tát với tâm chí vô cùng thanh tịnh khi thực hành lối sống Bồ Tát. Chúng con cũng sẽ viên mãn sáu Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia và sinh về cõi Phật ấy.
Này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai liền thọ ký cho 10.000 long vương ấy như sau:
Khi nào Bồ Tát Phổ Hiền Đại Bồ Tát thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì các ông cũng sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở các thế giới cận kề xung quanh.
Các ông trước tiên sẽ có chung 1.000 danh hiệu là Jvālakuṇḍeśvara-ghoṣa - Âm Thanh Chúa Tể Bếp Lửa Rực Cháy Như Lai.
1.000 người khác tiếp theo sẽ có danh hiệu là Saṃvṛtīśvara-ghoṣa - Âm Thanh Bậc Đại Chủ Nơi Chân Lý Quy Ước Như Lai.
1.000 người khác tiếp theo nữa sẽ có danh hiệu là Suvimala-ghoṣeśvara-rāja - Vị Vua Chúa Tể Âm Thanh Hoàn Toàn Thanh Tịnh Như Lai.
1.000 người khác tiếp theo nữa sẽ có danh hiệu là Prahīṇa-bhaya-ghoṣeśvara-rāja - Vị Vua Chúa Tể Đã Trừ Mọi Âm Thanh Sợ Hãi Như Lai.
1.000 người khác tiếp theo nữa sẽ có danh hiệu là Vimala-ghoṣa-tejeśvara-rāja - Vị Vua Chúa Tể Ánh Sáng Âm Thanh Hoàn Toàn Thanh Tịnh Như Lai.
500 người đây sẽ có chung danh hiệu là Sūryaghoṣa - Âm Thanh Mặt Trời Như Lai.
500 người tiếp theo sẽ có chung danh hiệu là Vigata-bhaya-kīrti-rājā - Vị Vua Có Danh Tiếng Tách Rời Khỏi Sợ Hãi Như Lai.
500 người tiếp theo sẽ có danh hiệu là Vigata-raśmi - Ánh Sáng Tách Rời Như Lai.
Và 500 người nữa sẽ có danh hiệu là Vigata-raśmi-ghoṣa-kīrtīśvara-ghoṣa - Âm Thanh Chúa Tể Có Danh Tiếng Ánh Sáng Âm Thanh Tách Rời Như Lai
Ngoài ra theo thứ tự 95 người tiếp theo sẽ có danh hiệu là:
Viparadharmakīrtighoṣa – Âm Thanh Danh Tiếng Pháp Đưa Đến Bờ Bên Kia Như Lai
Garbhakīrtirājaratnadhvaja – Ngọn Cờ Ngọc Quý Vua Kho Tàng Danh Tiếng Như Lai
Jyotīśvara – Chúa Tể Ánh Sáng Lửa Như Lai
Uttaptamunijñāneśvara – Chúa Tể Trí Tuệ Bậc Thánh Được Rèn Luyện Hoàn Toàn Tĩnh Lặng Như Lai
Ketacīvarasaṃbhṛtarāja – Vua Được Bao Bọc Hoàn Toàn Ngọn Cờ Y Áo Bậc Xuất Gia Như Lai
Acintyamatijñānagarbha – Kho Tàng Trí Tuệ Tư Duy Không Thể Nghĩ Bàn Như Lai
Jñānamerudhvaja – Ngọn Cờ Núi Meru Trí Tuệ Như Lai
Jñānasāgararāja – Vua Biển Trí Tuệ Như Lai
Mahāvīryaghoṣeśvara – Chúa Tể Âm Thanh Đại Tinh Tấn Như Lai
Meruśrīkalpa – Bậc Giàu Sang Như Núi Tu-di Như Lai
Jñānavirajavega – Sức Mạnh Thanh Tịnh Trí Tuệ Như Lai
Kimīśvarabīja – Hạt Giống Chúa Tể Vàng Như Lai
Jñānasuvimalagarjiteśvara – Chúa Tể Tiếng Rống Đại Thanh Tịnh Trí Tuệ Như Lai
Abhibhūtaguṇasāgararāja – Vua Biển Công Đức Thù Thắng Như Lai
Jñānasaṃbhavabalarāja – Vua Sức Mạnh Phát Sinh Trí Tuệ Như Lai
Virajavīreśvararāja – Vua Chúa Tể Anh Hùng Thanh Tịnh Như Lai
Muniśrīkūṭavegasaṃkusuma – Bậc Thánh Tĩnh Lặng Đỉnh Cao Phước Đức Khai Hoa Nở Rực Sức Mạnh Tốc Lực Như Lai
Śrīkūṭajñānabuddhi – Đỉnh Cao Phước Đức Trí Tuệ Toàn Giác Như Lai
Vajrasiṃha – Sư Tử Kim Cang Như Lai
Śīlaprabhāsvara – Chúa Tể Ánh Sáng Giới Đức Như Lai
Bhadrottama – Bậc Hiền Lành Tối Thượng Như Lai
Anantaraśmi – Ánh Sáng Liên Tục Không Gián Đoạn Như Lai
Siṃhanandi – Sư Tử Hoan Hỷ Như Lai
Akṣayajñānakūṭa – Đỉnh Cao Trí Tuệ Bất Hoại Như Lai
Ratnāvabhāsa – Ánh Sáng Ngọc Quý Như Lai
Jñānavimala – Trí Tuệ Thanh Tịnh Như Lai
Jñānapravāḍa – Trí Tuệ Kiên Cố Như Lai
Siṃhakīrti – Danh Tiếng Sư Tử Như Lai
Abhijñāguṇarāja – Vua Công Đức Thắng Trí Như Lai
Dharmasumanāvarṣī – Mưa Pháp Hoa Sumanā Như Lai
Prabhākara – Bậc Tạo Ra Ánh Sáng Như Lai
Abhyudgatameru – Núi Meru Trỗi Dậy Như Lai
Dharmasamudgatarājavimala – Vua Thanh Tịnh Dâng Lên Chánh Pháp Như Lai
Gandheśvara – Chúa Tể Hương Thơm Như Lai
Vimalanetra – Mắt Thanh Tịnh Như Lai
Mahāprasandaya – Đại Ban Phát Như Lai
Asaṅgabalarāja – Vua Sức Mạnh Không Chấp Trước Như Lai
Svajñānapuṇyabala – Sức Mạnh Công Đức Trí Tuệ Chính Mình Như Lai
Jñānacīvara – Y Phục Trí Tuệ Như Lai
Vaśavartī – Tự Tại Chủ Như Lai
Asaṅgahiteṣī – Người Tìm Cầu Không Vướng Mắc Như Lai
Jñānasaṃbhava – Phát Sinh Trí Tuệ Như Lai
Mahāmeru – Núi Meru Lớn Như Lai
Balagarbha – Kho Tàng Sức Mạnh Như Lai
Guṇākara – Bậc Tạo Ra Công Đức Như Lai
Latākusumadhvaja – Ngọn Cờ Hoa Dây Leo Như Lai
Gaṇaprabhāsa – Ánh Sáng Đại Chúng Như Lai
Viguṇamoharāja – Vua Không Bị Sê Mê Vô Minh Làm Lìa Bỏ Công Đức Như Lai
Vajrottama – Kim Cang Tối Thượng Như Lai
Dharmaketu – Ngọn Cờ Pháp Như Lai
Ghoṣendrarāja – Vua Chúa Tể Âm Thanh Như Lai
Svagupta – Tự Hộ Trì Như Lai
Vajradhvaja – Cờ Kim Cang Như Lai
Ratneśvara – Chúa Tể Ngọc Quý Như Lai
Abhyudgatadhvaja – Ngọn Cờ Chiến Thắng Vươn Cao Tối Thượng Như Lai
Śailakalpa – Phẩm Hạnh Như Núi Như Lai
Ratimegha – Mây Hạnh Phúc Như Lai
Dharmakārisālarāja – Vua Cây Sa-la Tạo Ra Chánh Pháp Như Lai
Samantaguptasāgararāja – Vua Biển Bảo Hộ Bình Đẳng Như Lai
Jñānasaṃnicaya – Tích Tụ Trí Tuệ Như Lai
Jñānārci – Ánh Sáng Trí Tuệ Như Lai
Kusumagaṇi – Chuỗi Hoa Như Lai
Gajendreśvara – Chúa Tể Voi Chúa Như Lai
Udumbarapuṣpa – Hoa Udumbara Như Lai
Kāñcanadhvaja – Cờ Vàng Như Lai
Dharmadhvaja – Cờ Pháp Như Lai
Vinarditarāja – Vua Tiếng Rống Như Lai
Candana – Trầm Hương Như Lai
Supratiṣṭhitasthāmavikrama – Oai Lực Sức Mạnh Vững Chắc Hoàn Hảo Như Lai
Dhvajāgrapradīpa – Ngọn Đèn Cờ Tối Thượng Như Lai
Jñānakrama – Trật Tự Trí Tuệ Như Lai
Sāgaradhvaja – Cờ Biển Như Lai
Vyayadharmakīrti – Danh Tiếng Pháp Bất Hoại Như Lai
Māravinardita – Hàng Phục Ma Như Lai
Guṇārci – Ánh Sáng Công Đức Như Lai
Jñānaprabha – Ánh Sáng Trí Tuệ Như Lai
Jñānapradīpa – Ngọn Đèn Trí Tuệ Như Lai
Kṣemarāja – Vua An Lành Như Lai
Jñānaghoṣa – Âm Thanh Trí Tuệ Như Lai
Dhvajasaṃgraha – Tập Hợp Cờ Như Lai
Vajrapradīpa – Đèn Kim Cang Như Lai
Vyūharāja – Vua Trang Nghiêm Như Lai
Jayasaṃkhyā – Chiến Thắng Không Thể Tính Đếm Như Lai
Supratiṣṭhita – Bậc An Trú Hoàn Hảo Như Lai
Maticandrarāja – Vua Mặt Trăng Trí Tuệ Mati Như Lai
Kramavinarditarāja – Vua Tối Thượng Khởi Xướng Con Đường Tu Tuần Tự Chiến Thắng Như Lai
Sālendrasiṃhavigraha – Sư Tử Uy Dũng Trong Rừng Sa-la Như Lai
Nārāyaṇavijitagarbha – Kho Tàng Chiến Thắng Nārāyaṇa Như Lai
Ratnaguṇasaṃnicarya – Tích Lũy Ngọc Quý Công Đức Như Lai
Jyotigarbha – Kho Tàng Ánh Sáng Lửa Như Lai
Nakṣatravibhavakīrti – Danh Tiếng Giàu Có Như Tinh Tú Như Lai
Puṇyabalasālarāja – Vua Cây Sa-la Sức Mạnh Công Đức Như Lai
Jñānaghoṣa – Âm Thanh Trí Tuệ Như Lai
Brahmottara – Phạm Thiên Tối Thượng Như Lai
Dhṛtarāṣṭra – Hộ Quốc Như Lai
Lại có, 1.000 người tiếp theo sẽ có cùng danh hiệu là gandha-padma-vijita-kīrti-rājā - Vua Danh Tiếng Hương Thơm Hoa Sen Padma Toàn Thắng Như Lai.
500 người tiếp theo sẽ có chung danh hiệu là Raśmi-maṇḍala-jyoti-prabhāsa-rājā - Vua Ánh Sáng Lửa Rực Cháy Thành Vòng Tròn Hào Quang Như Lai.
200 người đây sẽ có chung danh hiệu là Gandha-padmottara-vega - Sức Mạnh Tốc Lực Hương Thơm Hoa Sen Padma Tối Thượng Như Lai.
100 người tiếp theo sẽ có chung danh hiệu là Ananta-guṇa-sāgara-jñānottara - Trí Tuệ Tối Thượng Biển Công Đức Không Cùng Tận Như Lai.
100 người tiếp theo nữa sẽ có danh hiệu là Jambu-cchāya - Bóng Mát Cây Mận Jambu Như Lai.
Và theo thứ tự 5 người tiếp theo sẽ có danh hiệu là:
Guṇa-śaila-dhvaja – Cờ Núi Công Đức Như Lai
Siṃha-ketuḥ – Ngọn Cờ Sư Tử Như Lai
Nāga-vivarjita-kusuma-teja-rājā – Như Lai – Vua Ánh Sáng Nở Hoa Thoát Khỏi Loài Rồng Như Lai
Sugandha-bīja-nairātma – Hạt Giống Hương Thơm Vô Ngã Như Lai
Amṛta-guṇa-teja-rāja-kalpina – Vua Hình Thành Ánh Sáng Công Đức Bất Tử Như Lai
Và 1.000 người cuối cùng sẽ có chung một danh hiệu là visṛṣṭa-dharma-rājāno nāgendra-vimukti-buddha-loka-sāgara-locana-śaila - Vua Ban Bố Chánh Pháp Núi Con Mắt Biển Cả Thế Giới Toàn Giác Giải Thoát Tối Thượng Chúa Tể Long Thần Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.
Tất cả 10.000 vị sẽ đồng thời, trong cùng một ngày, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và trong các thế giới khác nhau, tuổi thọ sẽ có giới hạn là 10 tiểu kiếp.
Khi ấy, 10.000 người kia đều cúi đầu sát chân đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai trong năm vòng bán kính hoa.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Hãy đứng dậy, tiếng rống mạnh mẽ,
Của loài rồng, kiên cố vững chắc,
Hãy tích tập kho tàng công đức,
Hãy gom góp việc làm tốt đẹp,
Nhanh tinh tấn các Ba-la-mật,
Các ông sẽ thành bậc lãnh đạo,
Giữa loài người, a-tu-la, chư thiên.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho Bồ Tát Akṣobhya - đức Thế Tôn Bất Động Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử đã thỉnh mời vị vương tử thứ chín tên là Amigha.
Khi ấy, vương tử Amigha ở trước đức Thế Tôn phát nguyện rằng:
Thưa đức Thế Tôn, con sẽ thực hành lối sống Bồ Tát, sao cho ở mười phương nơi các thế giới nhiều như số cát sông Hằng, các đức Phật Thế Tôn), số lượng cũng nhiều như số cát sông Hằng, đang trụ trì, và đang vận hành, sẽ trở thành các vị chứng minh cho con khi thực hành lối sống Bồ Tát.
Khi con, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, ở trước Ngài, phát khởi tâm hướng đến Tỉnh thức, cho đến khi con chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong khoảng thời gian đó, khi con đang thực hành lối sống Bồ Tát, tâm hối hận sẽ không khởi lên nơi con. Cho đến khi đạt tới Tỉnh thức, con sẽ giữ lời thệ nguyện kiên cố, lời nói và hành động tương ưng với nhau. Con sẽ không làm tâm của bất kỳ chúng sinh nào bị dao động, và con cũng không khởi tâm hướng về thừa Thanh Văn hay thừa Độc Giác Phật. Không để khởi tâm và các tâm phụ thuộc thuộc về dục ái, hôn trầm và thụy miên, trạo cử, hối hận, nghi ngờ; không phạm sát sinh, trộm cắp, lối sống phi pháp, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, tham lam, sân hận, tà kiến, nói lời vô ích, tâm keo kiệt, tâm không tôn trọng Pháp, và tâm dối trá. Cho đến khi đạt tới Tỉnh thức, nơi con khi đang thực hành lối sống Bồ Tát, những pháp này sẽ không hiện hữu.
Cho đến khi đạt tới Tỉnh thức, con sẽ duy trì sự ghi nhớ về chư Phật như một bước tiến trên con đường, và các tâm cùng các tâm phụ thuộc này sẽ thường xuyên vận hành. Cho đến khi đạt tới Tỉnh thức, con sẽ không bị thiếu vắng việc thấy chư Phật, không thiếu việc nghe Pháp và không thiếu việc gần gũi Tăng đoàn. Và trong mọi đời sinh ra, con đều sẽ được xuất gia.
Trong tất cả các đời sinh ra, con sẽ là người mặc y phấn tảo, giữ ba y, sống dưới gốc cây, ngồi nơi đất trống, ở chốn rừng núi, đi khất thực, ít ham muốn, biết đủ, là người thuyết pháp, biết lắng nghe lời dạy, và đầy đủ trí biện tài vô lượng.
Con sẽ không phạm các căn bản trọng tội. Con sẽ không dùng những lời chú thuật đi kèm với vọng ngữ để tranh luận chống lại các luận thuyết khác.
Con sẽ thuyết pháp cho chúng Tỳ-kheo-ni trong sự liên hệ với Tánh Rỗng Không (śūnyatā), và khi quán tâm trong Tánh Rỗng Không. Con sẽ không bày răng khi nói, cũng không thuyết pháp với các cử động tay.
Con sẽ luôn luôn khởi tâm tưởng xem là bậc Thầy đối với những vị Bồ Tát phát tâm và khởi hành trên con đường Đại Thừa.
Đối với vị pháp sư mà con được nghe pháp từ nơi họ, con sẽ khởi tâm tưởng xem là bậc Thầy đối với vị ấy; và con sẽ cung kính, tôn trọng, xem họ như đức Như Lai, tôn làm đạo sư, kính trọng, và cúng dường vị pháp sư đó, cho đến mức dâng hiến ngay cả thịt thân mình để phụng sự.
Con sẽ không khi cho bố thí lại xét xem vật ấy đáng hay không đáng, và sẽ không khởi các tâm và các tâm phụ thuộc ganh tỵ khi bố thí pháp. Con sẽ dùng chính sự bố thí mạng sống của mình để cứu độ các chúng sinh cầu Tỉnh Thức; và bằng của cải mà con đạt được nhờ sức tinh tấn và nguyện lực, con sẽ cứu thoát các chúng sinh đang bị khổ nạn khỏi mọi khổ nạn.
Con sẽ không quở trách người hiện tướng xuất gia hay người hiện tướng tại gia, dù họ có phạm hay không phạm giới.
Và con sẽ luôn khởi tâm tưởng xem danh lợi, sự cung kính và tiếng khen giống như lửa, thuốc độc và gươm đao.
Và nếu, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, những lời nguyện này của con được thành tựu cho đến khi đạt Tỉnh thức, như lời nguyện con đã phát trước đức Thế Tôn, thì từ hai tay của con sẽ xuất hiện hai bánh xe báu thiên giới, ngàn căm, có trục giữa, có vành, sáng rực như mặt trời.
Ngay khi lời này được vương tử Amigha nói ra, thì từ hai tay của Ngài liền hiện ra hai bánh xe như thế, đúng như đã thỉnh cầu.
Vương tử Amigha lại nói:
Nếu, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nguyện vọng như thế của con được viên mãn cho đến khi đạt tới Tỉnh thức, thì những bánh xe này hãy đi đến các cõi Phật thanh tịnh, không còn năm ô trược. Với tiếng lớn như hai vị Long Vương Nanda và Upananda đang đi, thì cũng vậy, hãy làm vang khắp toàn bộ cõi Phật bằng âm thanh để tuyên thuyết bài giảng pháp thuộc cảnh giới Toàn Giác của Phật, dẫn dắt việc tu tập quán Tánh Rỗng Không, trí tuệ và cái thấy không quên mất lời thọ ký của Bồ Tát.
Và những chúng sinh tái sinh ra ở đó, nơi tất cả các căn lỗ tai của họ, bài giảng pháp này hãy hiện đến như ánh sáng. Ngay khi nghe được, thì lòng tham dục của các chúng sinh ấy sẽ lắng dịu, sân hận, si mê, ngã mạn, ganh tị và xan tham cũng sẽ lắng dịu. Với sự ghi nhớ và quán sát tất cả các đức Phật, họ sẽ phát khởi tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Và, này thiện nam tử, vương tử Amigha đã phóng đi hai bánh xe báu. Hai bánh xe ấy với tốc độ như vậy bay đi, giống như các đức Phật Thế Tôn đi với tốc độ của chư Phật. Cũng như vậy, hai bánh xe báu ấy đi khắp mười phương, trong vô lượng vô số cõi Phật thanh tịnh, không còn năm ô nhiễm, đến nơi để tuyên thuyết bài giảng pháp của Phật làm phương tiện dẫn dắt cho việc tu tập quán bao gồm trí tuệ không quên mất ký ức về thọ ký của Bồ Tát.
Và đối với các chúng sinh ấy, bài giảng pháp này đến như ánh sáng nơi căn lỗ tai của họ. Tất cả sự tham ái, và cho đến các tâm và tâm phụ thuộc về xan tham đều được lắng dịu. Tất cả đều đã phát khởi tâm hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhờ quán sát đối tượng của trí tuệ Toàn Giác. Và chỉ trong khoảnh khắc, những bánh xe ấy quay trở lại và dừng trước vương tử Amigha.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đã khen ngợi vương tử Amigha rằng:
Lành thay, lành thay, này thiện nam tử, ông đã phát lời nguyện vô cùng tốt đẹp, và những bánh xe báu cõi trời này đã được phóng đến các cõi Phật thanh tịnh, không còn năm trần cấu, và đã an lập vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chúng sinh với tâm thanh tịnh, và khiến họ an trú nơi Tỉnh thức. Do đó, này thiện nam tử, ông hãy trở thành bậc hiệu là Akṣobhya - Bất Động. Chính ông, này Bất Động, sẽ là vị giáo chủ của thế giới. Hãy thọ nhận những trang nghiêm công đức của cõi Phật Bất Động như ông mong muốn.
Bồ Tát Bất Động nói rằng:
Con, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, mong muốn sự trang nghiêm công đức của cõi Phật như thế, sao cho toàn bộ thế giới đều là đất vàng, bằng phẳng như lòng bàn tay, rải đầy các báu vật và ngọc quý maṇi cõi trời, không có sỏi cát, hố hầm, cột đá, núi đá, đất mềm mại, chạm vào êm ái như thủy tinh và pha lê. Khi đặt bàn chân xuống thì chìm xuống, khi nhấc bàn chân lên thì bằng phẳng lại.
Ở đó, sẽ không thấy các cảnh giới địa ngục, súc sinh, cõi yama hay ngạ quỷ. Và trong cõi Phật ấy sẽ không có các mùi hôi thối, mà sẽ tràn đầy hương thơm thiên giới siêu việt. Cõi Phật ấy sẽ rải đầy hoa trời Māndārava và Đại Māndārava vi diệu.
Và ở đó, các chúng sinh sẽ không có sự già, bệnh hay chết; không có sợ hãi lẫn nhau, không hại nhau. Họ sẽ không có cái chết phi thời, chết vì hối hận, hay chết khi tâm không an định. Các chúng sinh ở đó sẽ sống với sự ghi nhớ và quán sát đức Phật. Và họ sẽ không sinh vào các đường ác, cũng không sinh trong các cõi Phật không thanh tịnh và còn năm trần cấu. Cho đến khi đạt Tỉnh thức và nhập Niết-bàn, họ sẽ không lìa việc thấy Phật, việc nghe Pháp và việc thân cận Tăng đoàn. Và các chúng sinh ở đó sẽ ít tham, ít sân, ít si, và tất cả sẽ hành trì 10 con đường nghiệp thiện lành sau khi đã thọ nhận.
Và trong cõi Phật ấy sẽ không có việc các chúng sinh chấp giữ các nghề nghiệp thủ công, cũng không có các tướng mạo về tên gọi liên quan đến các nghề nghiệp đó, và không có sự xuất hiện của Ma cản trở con đường của các chúng sinh ấy.
Và ở đó, các chúng sinh sẽ không có dung sắc xấu, không có sự đối nghịch, hiềm khích; cho dù là bậc thánh hay kẻ nô bộc, tất cà các chúng sinh ở đó đều sẽ không tham giữ của cải và không sở hữu riêng.
Và ở đó, sẽ không có sự giải thoát trắng (śukla-mokṣaṇa), tức là sự giải thoát khỏi ràng buộc sinh tử và phiền não của hàng Thanh Văn hay Bồ Tát, thậm chí cũng không có ngay cả trong giấc mộng.
Và tất cả chúng sinh ở đó đều ưa thích Pháp, và chuyên tâm tìm cầu bài giảng Pháp. Và ở cõi Phật ấy, không có dù chỉ một chúng sinh có tà kiến, cũng không có ngoại đạo.
Và ở đó, chúng sinh không có sự mệt mỏi của thân hay mệt mỏi của tâm. Tất cả những chúng sinh ấy đều có năm thần thông.
Và ở đó, chúng sinh không bị khát hay đói làm phiền não. Thức ăn mà chúng sinh ước muốn, thì đúng như thế sẽ hiện ra trước mặt trong những chén báu, giống như đối với các chư thiên ở cõi Dục giới. Và không có sự đại tiểu tiện, không có đờm, không có nước mũi, không có nước mắt, và cũng không có mồ hôi.
Và ở đó không có lạnh hay nóng, mà khí hậu đều thơm ngát, dễ chịu, và các làn gió thổi qua đều có xúc chạm mềm mại.
Và các loài trời và người làm cho hương thơm đúng như họ mong muốn. Dù họ mong muốn loại gió nào — mát lạnh, ấm áp, mang hương sen xanh utpala, hương trầm thủy uragasāra-candana, đúng theo thời tiết, hương tử đàn tagara, hay hương trầm quý aguru — hoặc tất cả hương cùng một lúc, thì tùy theo tâm họ khởi, liền được như vậy.
Như vậy, thế giới ấy sẽ không còn năm thứ cấu nhiễm.
Và ở đó, chúng sinh có những lầu gác làm bằng bảy báu. Và trong các lầu gác ấy, có những giường ngồi bằng bảy báu, trải nệm bông, mềm mại như pha lê và lưu ly, hiện ra để con người nghỉ ngơi. Và xung quanh các lầu gác sẽ có ao sen đầy nước đủ tám công đức, hiện ra để chúng sinh ấy sử dụng cho mọi sinh hoạt liên quan đến nước.
Sẽ có những hàng cây của các loài cây như cây hoa lài sumanā, cây thốt nốt tāla, được trang hoàng bằng nhiều loại hoa khác nhau, nhiều loại quả, nhiều hương thơm, nhiều loại y phục, nhiều lọng, nhiều chuỗi ngọc trai và nhiều đồ trang sức. Và y phục, trang sức mà chúng sinh ở đó mong muốn, thì họ sẽ lấy từ các cây như ý để mặc vào; cũng như vậy, họ sẽ hái hoa và các đồ trang sức để đeo lên người.
Và cây Tỉnh Thức của con sẽ làm bằng bảy báu, cao 1.000 yojana (12.000km), chu vi gốc là 1 yojana (12km), và chu vi các cành là 1.000 yojana (12.000km). Và từ cây Tỉnh Thức ấy, các làn gió thổi ra âm thanh vi diệu thần thánh, êm dịu và khả ái, diễn bày về các Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia, các thần thông, các căn, các sức mạnh, và các chi phần giác ngộ. Và những chúng sinh nghe được âm thanh ấy, thì tâm họ sẽ ly dục và đạt được chánh niệm.
Và ở cõi Phật ấy, hội chúng các bà mẹ sẽ đầy đủ mọi công đức hiện hữu, giống như các tiên nữ apsarā trên cung trời tuṣita. Và hội chúng các bà mẹ ở đó không có mùi hôi, không có lời nói hai lưỡi, cũng không chứa tâm ganh ghét hay tâm tật đố. Và ở đó, con người không hề có sự giao hợp thân xác với các bà mẹ để sinh ra con cái. Và nếu ở đó có người nam khởi lên tâm nhiễm dục, đi đến hội chúng các bà mẹ, và nhìn với tâm nhiễm dục, thì trong khoảnh khắc dục ấy sẽ được lắng dịu.
Người ấy sẽ bước đi với tâm kinh sợ lớn, đạt được chánh định samādhi Thanh Tịnh Không Ô Nhiễm (śubha-viraja), và nhờ chánh định samādhi ấy sẽ được giải thoát khỏi các lưới trói của Ma, và sẽ không bao giờ khởi lên tâm nhiễm dục nữa.
Và người nữ ở đó, nếu nhìn người nam có tâm nhiễm dục, thì sẽ mang thai, và ngay khi vừa nhìn, cả hai dục tâm đều được lắng dịu. Những hài nhi còn trong thai đều cảm nhận được thân và tâm an lạc, giống như chư thiên ở cõi trời Ba Mươi Ba vui mừng, hoan hỷ và cảm nhận lạc thọ nơi thân và tâm. Và ở cõi Phật ấy, các hài nhi còn trong thai sẽ cảm nhận lạc thọ như vậy trong bảy ngày đêm. Và những người nữ mang thai sẽ cảm nhận lạc thọ như vậy, giống như vị Tỳ-kheo nhập vào Tầng Thiền thứ hai. Và những hài nhi ấy không bị nhơ uế do cấu uế trong thai tạng, và vào ngày thứ bảy sẽ được sinh ra trong hương thơm tối thượng và được đặt trên đệm an lạc tối thượng.
Và người nữ ấy cũng không chịu sự đau đớn. Sau khi sinh con, cả hai mẹ và con đều xuống hồ sen tắm, và người nữ ấy đạt được chánh niệm như vậy.
Nhờ đó, sẽ đạt được chánh định samādhi Thanh Tịnh Ly Dục (virāga-śubha), và nhờ chánh định samādhi ấy sẽ được giải thoát khỏi các hành nghiệp của Ma, và sẽ luôn an trú trong định.
Và nếu trong đời sống quá khứ, đã tạo tác và tích tập các nghiệp, mà do đó phải trải qua thân nữ trong vô số hàng tỷ kiếp, thì nhờ chánh định samādhi đã viên mãn ấy, sẽ đoạn trừ hoàn toàn thân nữ, và cho đến khi nhập Niết-bàn, sẽ không bao giờ thọ lại thân nữ nữa.
Và đối với những chúng sinh đã tạo tác và tích tập các nghiệp như vậy, do đó phải tái sinh liên tục trong trạng thái bào thai trải qua vô lượng kiếp, và phải trải qua khổ đau khi sinh nở, thì nếu họ nghe được danh hiệu của con khi đã thành Tỉnh Thức, và đạt được lòng tin thanh tịnh, thì từ đó họ sẽ xả bỏ thân cũ và sinh về cõi Phật của con, tái sinh qua hình thức bào thai, ở đó, tất cả nghiệp quá khứ ấy sẽ được tiêu trừ, và cho đến khi đạt Tỉnh Thức, các chúng sinh ấy sẽ không bao giờ tái sinh qua hình thức ở thai nữa.
Những chúng sinh đã tích luỹ trọn vẹn căn lành thì tái sinh trong hoa sen padma, còn những chúng sinh chưa tích luỹ trọn vẹn căn lành thì tái sinh qua hình thức ở thai. Khi nghiệp đã tiêu trừ, tại cõi Phật của con, việc thọ sinh bằng đường người mẹ hay bằng cách ở thai sẽ không còn. Và các chúng sinh ấy sẽ được an trí trong hạnh phúc tuyệt đối ở cõi Phật ấy.
Từ các cây lài Sumanā và cây Tàla do gió lay động sẽ vang ra âm thanh êm đẹp, và những âm thanh ấy thuyết về khổ đau, vô thường, vô ngã và Tánh Rỗng Không sẽ vang lên.
Và nhờ âm thanh ấy, con người ở đó sẽ đạt được chánh định samādhi gọi là Ulkāvatī - Đuốc Lửa, và nhờ chánh định samādhi ấy các chúng sinh ấy sẽ giác ngộ các pháp rất sâu hiện khởi trong Tánh Rỗng Không. Và ở cõi Phật ấy sẽ không có âm thanh liên hệ đến khoái cảm dục lạc.
Và khi con ngồi dưới gốc cây Tỉnh Thức, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, con sẽ chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chỉ trong khoảnh khắc. Và khi con đã thành Tỉnh Thức ở cõi Phật ấy, thì không còn thấy được ánh sáng của mặt trăng và mặt trời, ngoại trừ khi các hoa khép lại hay nở ra để xác định là ngày hay đêm.
Và con sẽ tỏa ra ánh sáng, nhờ đó bằng thiên nhãn có thể thấy các đức Phật Thế Tôn đang trụ trì ở các cõi Phật vô lượng vô biên.
Và khi con đã thành Tỉnh Thức, con sẽ thuyết pháp bằng âm thanh như vậy, nhờ đó, âm thanh ấy sẽ vang khắp 3.000 tỷ cõi Phật.
Những chúng sinh ở các cõi Phật đó, đều đạt được niệm tưởng về Phật. Dù họ đi đến đâu, đi kinh hành, ngồi hay đổi tư thế, thì họ luôn luôn thấy con. Khi đối với các pháp mà sinh khởi nghi hoặc, thì chỉ nhờ thấy và chỉ nhờ một lần nhìn on, mọi nghi hoặc của họ sẽ tiêu trừ.
Khi con đã thành Tỉnh Thức, những chúng sinh ở mười phương, trong vô lượng vô biên cõi Phật, dù thuộc Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa hay thừa Tối Thượng, nếu nghe được danh hiệu hoặc tướng hảo của con, thì từ đó sẽ xả bỏ thân cũ và sinh về cõi Phật của con.
Những người ở đó, khi nghe pháp của con:
Nếu là người theo Thanh Văn thừa thì sẽ trở thành A-la-hán tu tập thiền định tám giải thoát (aṣṭavimokṣa-dhyāyinaḥ).
Nếu là người theo Độc Giác thừa thì sẽ đạt quả vị Tỉnh Thức riêng mình (pratyekāṃ bodhim).
Nếu là người theo Bồ Tát Đại thừa thì khi nghe pháp từ nơi con, sẽ đạt được các pháp rất sâu xa như chánh định samādhi, Nhẫn (kṣānti) và Năng lực trì giữ chân lý Dhāraṇī, và ngay tại đó trở thành bất thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Và hội chúng Thanh Văn của con sẽ là vô lượng, không thể có ai đếm được, ngoại trừ chính đức Như Lai.
Khi con đã thành Tỉnh Thức, bất cứ nơi nào con đi, ở bất kỳ chỗ nào mà bàn chân con chạm đến trên mặt đất, thì ở đó sẽ xuất hiện các hoa sen padmā ngàn cánh có ánh vàng rực rỡ. Và những hoa sen ấy, khi đến các cõi Phật trống rỗng, sẽ phát ra âm thanh tán thán danh hiệu của con.
Những chúng sinh ấy, khi nghe danh hiệu, tướng hảo và uy đức của con, sẽ khởi niềm vui, lòng tin thanh tịnh và sự hoan hỷ. Những người đã sinh khởi lòng tin thanh tịnh ấy sẽ nguyện sinh về cõi Phật của con, rồi hồi hướng các căn lành ấy về đó. Từ đó, họ sẽ xả bỏ thân cũ và sinh về cõi Phật của con.
Hội chúng Thanh Văn của con sẽ thanh tịnh khỏi các ô uế của Sa-môn, không còn lời nói, sự quanh co hay gian trá của Sa-môn giả danh, không còn hội chúng xấu ác. Họ sẽ là những người lấy pháp làm thầy, chứ không lấy sự trang hoàng hay lợi dưỡng, cung kính làm trọng; ưa thích quán vô thường, khổ, vô ngã và Tánh Rỗng Không, tinh tấn và là hội chúng đặt pháp và việc nghe pháp lên hàng đầu.
Những vị Bồ Tát bất thoái chuyển ở đó sẽ đạt được niệm lực đối với những gì sẽ đến trong tương lai, và sẽ giảng nói các pháp thoại tương ưng với Tuệ Giác Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia (prajñāpāramitā), vượt ngoài mọi sự khác biệt về thân phận sinh ra. Cho đến khi đạt Tỉnh Thức, các pháp ấy sẽ không bao giờ bị quên mất.
Và từ khi con thành Tỉnh Thức, con sẽ trụ thế trong 10.000 đại kiếp. Sau khi con nhập Niết-bàn, chánh pháp của con sẽ còn tồn tại trong 1.000 kiếp.
Khi ấy, đức Thế Tôn nói rằng:
Lành thay, lành thay, này thiện nam tử, cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh của ông đã được chọn lấy.
Ông, này Bất Động, sẽ trở thành đức Phật trong đời vị lai, sau khi đã trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, và bước vào a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, ở phương Đông. Khi đó, tại cõi Phật thứ 1.000 sẽ có một thế giới tên là Abhirati - Hoan Hỷ, được thành tựu với những trang nghiêm công đức như đúng lời nguyện mà ông đã lập.
Tại đó, ông sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và như vậy, ông sẽ có hiệu là đức Thế Tôn Akṣobhya - Bất Động Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Bồ Tát Bất Động thưa rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nếu nguyện của con được viên mãn như thế, thì ở tất cả các thế giới, chúng sinh mang thân tâm gồm 5 uẩn, 18 giới, và những chúng sinh được nhiếp hóa, tất cả đều có tâm từ, không tâm thù hận, tâm thanh tịnh, và tất cả cùng cảm thọ sự an lạc nơi thân như Bồ Tát trụ ở tầng địa thứ 10, nhập vào chánh định samādhi hoa sen (padma-samādhi) nhờ đó được thanh tịnh trừ bỏ ý nghiệp. Nguyện tất cả được an trú trong an lạc thân và tâm như vậy. Khi con dùng trán cùng với năm chi phần thân thể sát đất đảnh lễ bàn chân của đức Thế Tôn, thì lúc đó toàn bộ mặt đất hãy trở nên chiếu sáng rực rỡ như vàng.
Này thiện nam tử, ngay lúc Bồ Tát Bất Động đảnh lễ bàn chân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng năm chi phần thân thể với trán sát đất. Ngay lúc đó, tất cả chúng sinh đều được an trú trong an lạc giống như nguyện đã lập, và khi ấy toàn bộ mặt đất hiện ra rực rỡ như vàng.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Hãy đứng lên, này akṣobhya,
Tuệ mati bất động tối thượng,
Hai bàn tay, bánh xe thù thắng,
Tâm từ bi, xả bỏ tham ái,
Ông sẽ thành bậc có thiện tuệ,
Bậc đạo sư ở giữa thế gian.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho Bồ Tát Gandhahasti - Voi Hương
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử đã mời gọi vị vương tử thứ 10 tên là Himaṇi.
Khi ấy, vương tử Himaṇi đã phát khởi bản nguyện tương tự như bản nguyện của Bồ Tát Bất Động. Ngay khi vừa phát nguyện xong, vương tử Himaṇi thưa với đức Thế Tôn rằng:
Nếu nguyện của con, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, được viên mãn như thế, thì tất cả chúng sinh đều đạt được sự quán niệm lấy đức Phật làm đối tượng an trú. Và nơi tất cả họ, hương thơm của trầm hương uragasāra hãy hiện ra trong tay của mình. Nguyện tất cả họ đều dâng hiến hương ấy lên các thân tượng của chư Phật.
Đức Thế Tôn nói rằng:
Lành thay, lành thay, này thiện nam tử, bản nguyện của ông đã được lập nên thật cao quý. Và việc ông đã thiết lập cho tất cả chúng sinh đều có tay mang hương trầm uragasāra, cùng với việc đã khởi lên ý hướng quán niệm Phật, do điều đó, này thiện nam tử, ông hãy mang danh hiệu là Gandhahasti - Voi Hương.
Này Gandhahasti, khi đã trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, và trong a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai còn lại, sau khi đức Thế Tôn Bất Động Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác đã nhập Niết-bàn, và sau khi chánh pháp ẩn mất vào ngày thứ bảy, khi đó, ông, này Gandhahasti, sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tại thế giới ấy. Ông sẽ là đức Thế Tôn có danh hiệu là Suvarṇapuṣpa - Kim Hoa Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Bồ Tát Gandhahasti lại thưa rằng:
Nếu nguyện của con, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, được viên mãn như thế, thì khi con đảnh lễ đôi chân của đức Thế Tôn bằng năm chi phần thân thể sát đất, khi ấy trong toàn bộ khu rừng cây mận Jambuvana này, hãy mưa xuống một trận mưa hoa champaka (hoa sứ trắng).
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, khi Bồ Tát Gandhahasti đảnh lễ đôi chân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng năm chi phần thân thể sát đất, thì trong toàn bộ khu rừng cây mận Jambuvana này đã mưa xuống một trận mưa hoa champaka.
Khi ấy, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Hãy đứng dậy, công đức thù thắng,
Tâm ông đầy hương thơm thanh tịnh,
Những hoa champaka thù diệu,
Đã mưa xuống khắp nơi trong rừng,
Hãy chỉ bày đường lành tối thượng,
Hãy thiến lập Bờ Kia vững chắc,
Cho vô số các loài chúng sinh.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho Bồ Tát Ratnaketu - Ngọn Cờ Ngọc Quý
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử đã mời gọi vị hoàng tử thứ 10 một tên là Siṃha.
Khi ấy, vương tử Siṃha đã phát khởi bản nguyện tương tự như bản nguyện của Bồ Tát Gandhahasti. Ngay khi vừa phát nguyện xong, vương tử Siṃha đã dâng một cây phướn báu lên đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai.
Đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Lành thay, lành thay, này thiện nam tử, hãy trở thành bậc có danh hiệu là Ratnaketu - Ngọn Cờ Ngọc Quý.
Này Ratnaketu, trong tương lai, sau khi đã trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, còn sót lại a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai. Khi ở tại thế giới Abhirati, sau khi đức Thế Tôn Kim Hoa Như Lai đã diệt độ, và Chánh Pháp của Ngài diệt mất, qua ba tiểu kiếp, cõi Phật ấy sẽ mang tên Jayasoma - Mặt Trăng Chiến Thắng.
Tại đó, ông sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và sẽ có hiệu là Nāga-vinardita-īśvara-ghoṣa - Âm Thanh Chúa Tể Gầm Vang Của Rồng Thần Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Cõi Phật của ông sẽ như vậy, trong cõi Phật ấy sự trang nghiêm công đức sẽ giống như của đức Thế Tôn Bất Động Như Lai.
Bồ Tát Ngọn Cờ Ngọc Quý nói rằng:
Nếu, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nguyện của con như vậy được thành tựu viên mãn, thì khi con đảnh lễ dưới chân của đức Thế Tôn, lúc đó tất cả chúng sinh đều đạt được niệm tưởng như thế, giống như các vị Bồ Tát đã phát tâm hướng tới Đại Tỉnh thức (mahā-bodhi), vì lợi ích của tất cả chúng sinh mà khởi tâm từ bi, đã bước vào con đường hướng tới Giác ngộ viên mãn thì không còn thoái chuyển.
Cũng như vậy, này thiện nam tử, Bồ Tát Ngọn Cờ Ngọc Quý sau khi đảnh lễ dưới chân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, thì cũng như vậy, chúng sinh đạt được niệm tưởng như thế, nghĩa là tất cả chúng sinh đã được an lập trong tâm từ bi.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói với Bồ Tát Ngọn Cờ Ngọc Quý rằng:
Hãy đứng lên, này bậc kiên định,
Bậc thiện tuệ mati cao quý,
Có phẩm tướng tối thượng thù thắng.
Vì lợi ích tất cả chúng sinh,
Ông đã lập đại nguyện kiên cố.
Ông đã an lập tâm thanh tịnh,
Cho vô số vô lượng chúng sinh,
Ông sẽ thành bậc người tối thượng,
Một vị Phật Toàn Giác tối thắng.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho 999 Vương Tử, 84.000 vua chư hầu, và 30 triệu người thuộc gia đình hoàng tộc
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử đã mời gọi 500 vương tử. Những vị ấy với tâm nhu hòa làm gốc đã phát nguyện như thế, và sau khi phát nguyện như vậy, các trang nghiêm công đức của cõi Phật đã được thọ nhận, giống như Bồ Tát Ấn Hư Không đã phát nguyện, các công đức trang nghiêm của cõi Phật cũng đã được thọ nhận.
Tất cả đều được đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai thọ ký cho Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rằng:
500 người các ông, trong tương lai, sẽ cùng một lúc, ở trong các thế giới khác nhau, sẽ chứng đạt Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại nữa, có 400 vị vương tử đã thọ nhận cõi Phật trang nghiêm như vậy, giống như của Bồ Tát Vajraccheda-prajñāvabhāsa - Ánh Sáng Cát Tường Tuệ Giác Prajñā Kim Cương Có Thể Cắt Đứt Tất Cả.
Tất cả đều được đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai thọ ký cho Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tại các thế giới khác nhau.
Lại nữa, có 99 vị vương tử đã phát nguyện như vậy, và cũng đã thọ nhận cõi Phật trang nghiêm như vậy giống như của Bồ Tát Samantabhadra - Phổ Hiền.
Tất cả 84.000 vị vua chư hầu, mỗi người riêng biệt đã phát nguyện đặc thù, và mỗi người riêng biệt đã thọ nhận các trang nghiêm công đức cõi Phật. Tất cả đều được đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai thọ ký cho Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và tại các thế giới khác nhau sẽ đồng thời chứng đạt Tỉnh Thức.
Cũng như vậy, 30 triệu chúng sinh, mỗi người riêng biệt đã phát nguyện, và mỗi người riêng biệt đã thọ nhận các trang nghiêm công đức cõi Phật. Tất cả đều được đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai thọ ký cho Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rằng:
Tất cả mọi người, trong tương lai, sẽ đồng thời ở tại các thế giới khác nhau chứng đạt Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho 80 người con trai của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, là anh em ruột của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử có 80 người con trai, đều là anh em của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai. Người con trưởng trong số ấy tên là Samudreśvarabhuvi - Đại Dương Chúa Tể Thế Giới, vẫn còn là một thanh niên.
Lúc ấy, này thiện nam tử, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử đã gọi thanh niên Đại Dương Chúa Tể Thế Giới và nói rằng:
Này con trai, hãy tiếp nhận cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh cùng với các trang nghiêm công đức.
Thanh niên Đại Dương Chúa Tể Thế Giới thưa rằng: “Trước hết, thưa cha, cha hãy gầm lên tiếng rống sư tử trước.”
Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử nói: “Này con trai, con hãy phát nguyện trước, rồi sau đó cha sẽ phát nguyện.”
Người con hỏi: “Vậy thì con nên tiếp nhận cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh hay là không thanh tịnh?”
Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử đáp:
Những vị Bồ Tát đầy đủ tâm đại bi (mahā-karuṇā) thì tiếp nhận cõi Phật có tạp nhiễm, để giáo hóa những chúng sinh có tâm ý bị ô nhiễm và kiến chấp sai lầm. Còn như chính con, con tự biết rõ tâm niệm của mình.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, thanh niên Đại Dương Chúa Tể Thế Giới đi đến chỗ đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, đến gần rồi đứng trước đức Như Lai và thưa rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, anh mong cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, để khi con người có tuổi thọ là 80.000 năm, thì anh sẽ chứng đạt quả vị Tỉnh Thức tối thượng.
Như hiện nay, thưa Thế Tôn, chúng sinh ít tham, ít sân, ít si, ít tâm ý bất an, thấy rõ những lỗi lầm và nguy hại của luân hồi, trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng; thì cũng vậy, ở cõi Phật nơi anh thành tựu Chánh Đẳng Giác, chúng sinh cũng sẽ như vậy. Họ sẽ xuất gia và quy y nơi anh, và bằng ba thừa anh sẽ thuyết pháp cho chúng sinh.
Nếu, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, mong cầu của anh như vậy được viên mãn, thì xin đức Thế Tôn thọ ký cho anh Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Này anh, trong đời vị lai, khi đã trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, rồi nhập vào a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, trong kiếp có tên là Utpalasantīraṇa - Hoa Sen Xanh Utpala Qua Bờ Kia, thuộc thế giới hành tinh có sự sống, có đủ bốn châu, sẽ có một quốc độ như vậy.
Tại cõi Phật này, trong hội chúng có tuổi thọ 80.000 năm, anh sẽ chứng đạt quả vị Tỉnh Thức. Khi ấy anh sẽ thành Phật hiệu là Ratnakūṭa - Đỉnh Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Thanh niên Đại Dương Chúa Tể Thế Giới thưa:
Nếu, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, mong cầu như vậy của anh được viên mãn, thì ở đây, khắp tất cả mọi nơi trong khu rừng này hãy mưa xuống các viên châu đỏ quý báu, và từ tất cả các cây hãy phát ra tiếng nhạc với năm âm điệu.
Và khi, này thiện nam tử, thanh niên Đại Dương Chúa Tể Thế Giới đảnh lễ đôi chân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng năm chi phần thân thể sát đất, thì khi ấy khắp nơi trong rừng Jambuvana mưa xuống những hạt châu đỏ báu, và từ tất cả các cây phát ra tiếng nhạc với năm âm điệu.
Khi ấy, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Hãy đứng dậy, Bậc mạnh thù thắng,
Là kho tàng tuệ giác vô tận,
Người thương xót tất cả chúng sinh,
Vì lợi ích và có tâm từ.
Nguyện ước thanh tịnh của chính anh,
Trong tương lai sẽ được viên mãn,
Anh là bậc đem lại lợi ích,
Và lòng từ bi cho chúng sinh,
Trong thế giới đức Phật Toàn Giác.
Người con trai thứ hai của vị Bà-la-môn tên là Saṃbhava, cũng phát nguyện giống như thanh niên Đại Dương Chúa Tể Thế Giới.
Đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Này anh, trong kiếp Utpalasantīraṇa - Hoa Sen Xanh Utpala Qua Bờ Kia, ở một thế giới hành tinh có sự sống với đầy đủ bốn châu tại cõi Phật tên là Baliṣṭha - Sức Mạnh Vững Chắc, trong hội chúng có tuổi thọ 80.000 năm đang hưng thịnh, anh sẽ thành Phật hiệu là Vairocana-kusuma - Hoa Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Đối với người anh thứ ba, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Này anh, trong hội chúng có tuổi thọ 2.000 năm, con sẽ thành Phật hiệu là Jyotigandha - Hương Thơm Ánh Sáng Lửa Sáng Rực Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Tương tự như vậy, những người anh em khác của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trong kiếp Utpalasantīraṇa - Hoa Sen Xanh Utpala Qua Bờ Kia, ở một thế giới hành tinh có sự sống với đầy đủ bốn châu, trong hội chúng có tuổi thọ 2.000 năm, họ sẽ thành các đức Thế Tôn theo thứ tự với danh hiệu là:
Sumana-tathāgata – Thiện Ý Như Lai
Śailarājā – Vua Núi Như Lai
Saṃvṛta-locano – Bậc Có Đôi Mắt Kín Đáo Như Lai
Brahmottara – Bậc Phạm Thiên Tối Thắng Như Lai
Jambūcchāya – Bóng Cây Jambu Như Lai
Pūrṇa-muttara – Tối Thắng Viên Mãn Như Lai
Ratnaśaila – Núi Ngọc Quý Như Lai
Samudragarbha – Tạng Đại Dương Như Lai
Nārāyaṇa – Narayana Như Lai
Śikhī – Đỉnh Cao Trí Tuệ Như Lai
Kanakamuni – Kim Thánh - Bậc Thánh Hoàng Kim Tĩnh Lặng Như Lai
Munīndra – Thánh Chúa Tĩnh Lặng Như Lai
Kauṇḍinya – Kauṇḍinya Như Lai
Siṃha-vikrama – Sức Mạnh Sư Tử Như Lai
Jñānadhvaja – Ngọn Cờ Trí Tuệ Như Lai
Buddhaśrava – Âm Thanh Toàn Giác Như Lai
Aparājita – Bất Khả Chiến Bại Như Lai
Vikasitojjaya – Chiến Thắng Nở Rộ Như Lai
Hiteṣī – Bậc Làm Lợi Ích Như Lai
Prajñāvabhāsa – Ánh Sáng Tuệ Giác Prajñā Như Lai
Mahendra – Đại Thiên Chúa Như Lai
Śānta-prajñākara – Bậc Sinh Ra Tuệ Giác Prajñā Thanh Tịnh Như Lai
Nanda – Hoan Hỷ Như Lai
Nyagrodha-rāja – Vua Cây Đa Nyagrodha Như Lai
Kanaka-locana – Bậc Có Đôi Mắt Vàng Như Lai
Sahita – Bậc Đi Cùng Đồng Hành Như Lai
Sūryanandiḥ – Mặt Trời Hoan Hỷ Như Lai
Ratnaśikhī – Đỉnh Cao Trí Tuệ Báu Như Lai
Sumetra – Bậc Có Mối Giao Kết Tốt Như Lai
Brahmā – Phạm Thiên Như Lai
Sunda – Đẹp Đẽ Cao Quý Như Lai
Brahma-rṣabha – Con Bò Đực Phạm Thiên (Bậc Tối Thắng Trong Phạm Thiên) Như Lai
Praṇāda – Tiếng Rống Lớn Như Lai
Dharma-candra – Mặt Trăng Pháp Như Lai
Artha-darśī – Bậc Thấy Lợi Ích Như Lai
Yaśonandī – Hoan Hỷ Danh Tiếng Như Lai
Yaśottara – Danh Tiếng Tối Thắng Như Lai
Abhirūpa – Dung Mạo Đẹp Đẽ Như Lai
Sugandha – Hương Thơm Như Lai
Catura – Khéo Léo Như Lai
Pravara-locana – Đôi Mắt Tối Thượng Như Lai
Sunijasta – Xuất Thân Cao Quý Như Lai
Sārtha-vrata – Bậc Có Lời Nguyện Chân Thật Như Lai
Sumanoratha – Ý Nguyện Tốt Đẹp Như Lai
Vara-prajña – Tuệ Giác Prajña Tối Thượng Như Lai
Kanaka-dhvaja – Ngọn Cờ Vàng Như Lai
Sunetra – Mắt Đẹp Như Lai
Devaśuddha – Thanh Tịnh Chư Thiên Như Lai
Śuddhodana – Tịnh Phạm Như Lai
Sudarśana – Tướng Mạo Đẹp Đẽ Như Lai
Virūḍha-dhvaja – Ngọn Cờ Lớn Mạnh Như Lai
Virūpākṣa – Mắt Khác Lạ Như Lai
Brahma-svara – Giọng Nói Phạm Thiên Như Lai
Śrīsaṃbhava – Bậc Sinh Ra Tốt Lành Như Lai
Śrī-mahā-viraja – Đại Quang Minh Tốt Lành Như Lai
Maṇibhadra – Ngọc Quý Maṇi Thánh Thiện Như Lai
Mārīciḥ – Tia Sáng Mặt Trời Như Lai
Śākyamuniḥ – Thích-ca Mâu-ni - Bậc Thánh Tĩnh Lặng Dòng Họ Thích Ca Như Lai
Ghoṣeśvara – Chúa Tể Âm Thanh Như Lai
Satyasaṃbhava – Bậc Sinh Ra Từ Chân Lý Như Lai
Śreṣṭha – Tối Thượng Như Lai
Saṃbhava-puṣpa – Hoa Sinh Như Lai
Su-kusuma – Hoa Đẹp Như Lai
Akṣobhya – Bất Động Như Lai
Sūrya-garbha – Tạng Mặt Trời Như Lai
Ratīśvara – Chúa Tể Niềm Vui Như Lai
Nāgadanta – Răng Rồng Như Lai
Vajra-prabhāsa – Ánh Sáng Kim Cương Như Lai
Kīrti-rājā – Vua Danh Tiếng Như Lai
Vyāghra-raśmiḥ – Tia Sáng Cọp Như Lai
Sanetya-jñānasaṃbhava – Sinh Ra Từ Trí Tuệ Kiên Cố Như Lai
Gandha-svara – Âm Hương Như Lai
Sāla-indra – Vua Cây Sala Như Lai
Nārāyaṇa-gata – Đạt Đến Nārāyaṇa Như Lai
Jyoti-garbha – Thai Ánh Sáng Lửa Sáng Rực Như Lai
Này thiện nam tử, còn người em út trong số đó, là con trai của vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, vị đại thần tư tế tối cao, tên là Vigata-bhya-saṃtāpa - Không Còn Sợ Hãi Và Khổ Não, đứng trước đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, và thưa rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, gia đình chúng ta có tất cả 80 anh em. Thì 79 người anh, trong đó đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai là người anh đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tất cả các anh còn lại đều đã được thọ ký rằng, trong kiếp Utpalasantīraṇa - Hoa Sen Xanh Utpala Qua Bờ Kia, khi hội chúng nhân loại hưng thịnh có tuổi thọ là 2.000 năm, sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Khi nghe được như vậy, thưa đức Thế Tôn, em đã khởi tâm hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Khi kiếp Utpalasantīraṇa - Hoa Sen Xanh Utpala Qua Bờ Kia sắp chấm dứt, em sẽ là người cuối cùng chứng đắc quả vị Tỉnh Thức Tối Thượng.
Tuổi thọ của tất cả 80 vị Phật ấy kéo dài bao nhiêu, thì tuổi thọ của riêng em khi thành Tỉnh Thức cũng sẽ bằng như thế.
Số lượng chúng sinh hữu duyên cần được hóa độ của các vị Phật ấy là bao nhiêu, thì số lượng của riêng em cũng sẽ bằng như thế. Cũng như các vị Phật ấy sẽ thuyết pháp bằng ba thừa, và có Tăng đoàn Thanh Văn như thế nào, thì Tăng đoàn Thanh Văn của em khi thành Phật cũng sẽ như vậy.
Những chúng sinh đã sinh ra trong thời của 80 vị Phật ấy, và trong kiếp Utpalasantīraṇa - Hoa Sen Xanh Utpala Qua Bờ Kia, được thân người, thì khi kiếp ấy sắp chấm dứt, em thành Chánh Đẳng Giác sẽ an lập tất cả những chúng sinh ấy vào quả vị chắc chắn bằng ba thừa.
Nếu nguyện vọng của em như thế được viên mãn, thì xin bậc Hiền Thánh, xin đức Thế Tôn hãy thọ ký cho em sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai liền khen Vigata-bhaya-saṃtāpa - Không Còn Sợ Hãi Và Khổ Não.
Lành thay, lành thay, bậc thiện nhân, em đã khởi tâm làm lợi ích với lòng từ bi cho vô số chúng sinh. Này em, trong tương lai, sau khi trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, và nhập vào a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, đến khi kiếp Utpalasantīraṇa - Hoa Sen Xanh Utpala Qua Bờ Kia sắp tận, em sẽ là người cuối cùng chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Khi ấy, em sẽ là đức Thế Tôn hiệu là Vigata-raja-samudgata-abhyudgata-rājā - Vị Vua Thù Thắng Vượt Trội Hiển Lộ Sau Khi Đã Diệt Trừ Mọi Cấu Uế Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Và tuổi thọ của 80 vị Phật ấy là nửa kiếp, thì tuổi thọ của riêng em cũng sẽ là nửa kiếp như vậy. Cho đến khi tất cả các nguyện của em được thành tựu đúng như nguyện đã phát.
Khi ấy, người em út Không Còn Sợ Hãi Và Khổ Não thưa rằng:
Nếu nguyện này của em, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, được viên mãn, thì khi em đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn bằng năm phần thân thể sát đất, lúc ấy khắp trong cõi Phật này, sẽ mưa xuống hoa màu xanh biếc tỏa hương thơm bậc nhất. Những chúng sinh ngửi hương ấy, tất cả các căn của họ đều trở nên thanh tịnh, điều hòa, và tất cả mọi bệnh tật của họ đều chấm dứt.
Và khi, này thiện nam tử, người em út Vigata-bhaya-saṃtāpa - Không Còn Sợ Hãi Và Khổ Não đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng năm phần thân thể sát đất, thì lúc ấy khắp cõi Phật này mưa xuống hoa xanh biếc. Những chúng sinh ngửi hương ấy, tất cả các căn của họ đều được quân bình, điều hòa, và an trụ. Tất cả chúng sinh ở đó đều không bệnh và ít ốm đau.
Khi ấy, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
“Hãy đứng lên, tâm đã điều phục,
Em giữ trọn hạnh nguyện từ bi.
Em sẽ cúng dường nhiều đức Phật.
Em sẽ chặt đứt mọi trói buộc,
Của phiền não xảo trá bền chặt.
Em sẽ trở thành kho tàng tuệ giác,
Tuệ Prajña tối thắng thanh tịnh.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho 30 triệu đệ tử của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, vị đại thần tư tế tối cao
Và này thiện nam tử, 30 triệu đệ tử của vị Bà-la-môn ấy, hiện đang ngồi tại các cổng rừng Jambuvana, được phân công làm các nhiệm vụ hướng dẫn chúng sinh khi đến đảnh lễ đức Phật, và khi có chúng sinh đến, liền khiến họ an trụ trong Ba Quy Y, và khuyến khích họ hướng về Tỉnh Thức.
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử liền bảo các đệ tử ấy rằng:
Này các thanh niên, hãy phát khởi tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hãy tiếp nhận các công đức của cõi Phật như các con mong cầu, và hãy phát nguyện trước đức Thế Tôn đúng như sở nguyện.
Khi ấy, có một thanh niên tên là Jyotikṣabhaka - Bậc Tiêu Trừ Mọi Tăm Tối Bằng Ánh Sáng liền thưa rằng:
Thưa Ngài, bằng con đường như thế nào, bằng Sự tích luỹ như thế nào, bằng tu tập lối sống như thế nào, bằng niệm như thế nào thì Tỉnh Thức được thành tựu?
Vị quan tư tế tối cao đáp:
Này các thanh niên, bốn kho tàng vô tận này là điều mà Bồ Tát khi đã bước vào con đường Tỉnh Thức cần phải tích luỹ.
Thế nào là bốn?
Đó là:
Kho tàng công đức vô tận (akṣayaḥ puṇya-saṃbhāraḥ),
Kho tàng trí biết vô tận (akṣayo jñāna-saṃbhāraḥ),
Kho tàng tuệ giác vô tận (akṣayaḥ prajñā-saṃbhāraḥ), và
Kho tàng tích luỹ tất cả pháp vô tận (akṣayaḥ sarva-dharma-samudānayana-saṃbhāraḥ).
Này thiện nam tử, đó là con đường như vậy.
Và, này thanh niên, đức Như Lai cũng đã dạy như vầy: “Cái gọi là ‘sự thu gom và gìn giữ sự thanh tịnh tuyệt đối của mọi kho tàng tích luỹ’ (saṃbhāra-viśuddhi-saṅgrahaḥ) chính là lối vào pháp để vượt khỏi luân hồi, thoát khỏi trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng.
Sự tích luỹ bố thí mà các Bồ Tát thực hành buông xả là nhằm làm phát triển toàn diện các chúng sinh có duyên hóa độ (dāna-saṃbhāraṃ).
Sự tích luỹ giữ giới của Bồ Tát là để thành tựu viên mãn các đại nguyện của mình (śīla-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Nhẫn nhục của Bồ Tát là để thành tựu viên mãn các tướng chánh và tướng phụ (kṣāntisaṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Tinh tấn của Bồ Tát là để thực hiện tất cả điều thiện mong muốn (vīrya-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Thiền định của Bồ Tát là để đạt được tâm thuần tịnh, điều phục, vững chắc như ngựa thuần (dhyāna-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Tuệ Giác prajñā của Bồ Tát là để thông đạt tất cả phiền não (prajñā-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Nghe pháp của Bồ Tát là để đạt được trí biện tài vô ngại, không chấp thủ dính mắc (śruta-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Công đức của Bồ Tát là để trở thành nơi nương tựa cho tất cả chúng sinh (puṇya-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Trí biết của Bồ Tát là để đạt được trí tuệ không nghi hoặc (jñāna-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Thiền Chỉ śamatha của Bồ Tát là để làm cho tâm chuyên nhất vào nghiệp thiện (śamatha-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Thiền Quán vipaśyanā của Bồ Tát là để đoạn trừ mọi hoài nghi (vipaśyanā-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Tâm từ của Bồ Tát là để tâm không bị ngăn ngại (maitrī-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Tâm bi của Bồ Tát là để không bao giờ mỏi mệt trong việc hóa độ chúng sinh (karuṇā-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Tâm hỷ của Bồ Tát là để vui thích và an trụ trong pháp (muditā-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Tâm xả của Bồ Tát là để đoạn trừ mọi thiên vị và sân hận (upekṣā-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Nghe Chánh Pháp của Bồ Tát là để trừ diệt các chướng ngại của nghiệp (dharmaśravaṇa-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Xuất ly của Bồ Tát là để dứt bỏ mọi chấp thủ mà mình đang phải sở hữu (naiṣkramya-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Ở nơi thanh vắng của Bồ Tát là để không mất công đức đã tu tập (araṇyavāsa-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Tu tăng trưởng thiện pháp của Bồ Tát là để đạt được mọi thiện pháp (kuśala-vṛddhi-bhāvanatā-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Niệm của Bồ Tát là để đạt được các năng lực trì giữ chân lý Dhāraṇī (smṛti-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Tuệ Mati Tỉnh Thức của Bồ Tát là để phân biệt các loại Tỉnh Thức (mati-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Kiên trì của Bồ Tát là để thông hiểu các phương tiện đạt đến mục đích ý nghĩa (dhṛti-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ an trú Chánh Niệm của Bồ Tát là để quán sát thân, thọ, tâm, pháp (smṛtyupasthāna-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Cắt Đứt Chơn Chánh của Bồ Tát là để viên mãn sự tu tập tất cả pháp thiện (samyakprahāṇa-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Căn bản thần thông của Bồ Tát là để thân tâm nhẹ nhàng (ṛddhipāda-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Căn giác quan của Bồ Tát là để thành tựu viên mãn giới luật phòng hộ (indriya-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Sức Mạnh của Bồ Tát là để diệt trừ tất cả phiền não (bala-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Chi phần Tỉnh Thức của Bồ Tát là để thông đạt bản tánh của các pháp (bodhyaṅga-saṃbhāraḥ).
Sự tích luỹ Sáu pháp ba-la-mật nâng cao đưa đến Bờ Bên Kiacủa Bồ Tát là để thanh tịnh hóa các chúng sinh cần được giáo hóa (ṣaṭ-parāyaṇīya-saṃbhāraḥ).
Này các thanh niên, đây gọi là “Tập hợp hành trang để đi đến thanh tịnh tuyệt đối” (saṃbhāra-viśuddhi-mukha-saṃgrahaḥ), là lối vào pháp để vượt thoát khỏi luân hồi sinh tử, trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng.
Các hành trang này là gì?
Ngài nói:
Hành trang Bố thí được đức Thế Tôn chỉ dạy để đầy đủ sự giàu có lớn và quyến thuộc lớn.
Hành trang Giới luật là để được sinh lên cõi trời.
Hành trang Nghe pháp là để thành tựu đại tuệ giác lớn (mahā-prajña).
Hành trang nuôi dưỡng lòng tin và mạng sống chân chánh được đức Thế Tôn chỉ dạy vì mục đích vượt thoát sinh tử, trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng của chính mình.
Vị quan tư tế tối cao nói rằng:
Những thanh niên nào hiện còn chìm đắm trong sinh tử, trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, thì nên tích luỹ và chuẩn bị hành trang đúng như vậy.
Này các thanh niên, hoặc là thiện gia nam tử, hay thiện gia nữ tử, nếu đã bước đi trên con đường Tỉnh Thức, thì khi bố thí phải thực hiện với tâm điều phục. Giữ giới với tâm chỉ tịnh śamatha tịch tĩnh. Nghe pháp với tâm không ô nhiễm. Tu tập thiền quán với tâm đại bi. Các pháp còn lại phải được tìm cầu để tích luỹ đầy đủ hành trang phương tiện cùng với tuệ giác prajñā và trí biết jñāna.
Này các thanh niên, đây là con đường Tỉnh Thức (bodhi-mārgaḥ).
Với hành trang như thế, Tỉnh Thức có thể đạt được — đây là sự tu tập như thế, là chánh niệm như thế, là thực hành lối sống trên đường Tỉnh Thức như thế. Hãy khởi lòng mong cầu Tỉnh Thức.
Con đường Tỉnh Thức thanh tịnh là do phát nguyện với tâm thanh tịnh.
Con đường Tỉnh Thức an lạc là do tâm ý thanh tịnh hoan hỷ.
Con đường Tỉnh Thức ngay thẳng là do đoạn trừ hoàn toàn các phiền não và sự giả trá.
Con đường Tỉnh Thức an ổn, không còn duy thức lo sợ, là kết thúc nơi Niết-bàn tối thượng.
Hãy phát nguyện, hãy nhận lấy các cảnh trang nghiêm công đức của cõi Phật, dù thanh tịnh hay không thanh tịnh, tùy theo ước nguyện của các con.
Khi ấy, 30 triệu đệ tử ấy, với sự hướng dẫn của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, đã tiến vào khu vườn tĩnh lặng trung tâm của rừng Jambuvana để phát nguyện trước đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho thanh niên Jyotikṣabhaka - Tiêu Trừ Mọi Tăm Tối Bằng Ánh Sáng
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, thanh niên tên là Jyotikṣabhaka - Tiêu Trừ Mọi Tăm Tối Bằng Ánh Sáng, quỳ gối phải chạm đất trước mặt đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai và thưa rằng:
Con khởi tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong cõi Phật này vốn bị nhiễm ô, các chúng sinh chỉ có ít tham dục, ít sân hận, ít si mê, tâm không lầm lạc và không dao động, tâm không oán hận, tâm lìa bỏ tật đố và ganh ghét, tâm lìa bỏ tà kiến, tâm an trụ nơi chánh kiến, tâm thiện, tâm tìm cầu điều thiện, tâm lìa bỏ đường ác, tâm ba con đường cõi trời, gốc lành được tích tập từ ba loại đối tượng tạo phước, tâm được vận dụng trong ba thừa — trong cõi như thế, con sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nếu nguyện này của con được viên mãn, thì nơi hai bàn tay con sẽ xuất hiện hai voi chúa.
Khi lời nguyện vừa dứt, nhờ oai lực của đức Thế Tôn, liền xuất hiện trên hai bàn tay ấy hai con voi chúa, toàn thân trắng như tuyết, đủ bảy phần thân thể an ổn vững chắc.
Khi ấy thanh niên Tiêu Trừ Mọi Tăm Tối Bằng Ánh Sáng thấy rồi bảo:
Hãy đi lên không trung. Hãy dùng trận mưa hương thơm tối thượng gồm tám phẩm chất thù thắng rưới khắp toàn cõi Phật này, khiến tất cả chúng sinh từ cõi Phật này đều được thức tỉnh. Những chúng sinh nào trên thân bị giọt hương ấy rơi xuống, hoặc ngửi được mùi hương ấy, thì năm triền cái chướng ngại (pañca-nīvaraṇāḥ) của họ đều được diệt trừ: đó là dục tham (kāmacchanda), sân hận (vyāpāda), hôn trầm và thụy miên (styāna-middha), trạo cử và hối hận (uddhatya-kaukṛtya), nghi hoặc (vicikitsā).
Khi lời ấy vừa thốt ra, những hai con voi chúa ấy liền bay trên hư không với tốc độ mau lẹ, giống như người lực sĩ co lại cánh tay đã duỗi ra hoặc duỗi ra cánh tay đã co lại. Cũng như vậy, các voi chúa ấy hoàn tất công việc như đã được nói ở trước, rồi quay lại và đứng trước vị ấy.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, thanh niên Tiêu Trừ Mọi Tăm Tối Bằng Ánh Sáng vô cùng hoan hỷ, và đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng rằng:
Này thiện nam tử, trong tương lai, khi đã bước vào a-sam-khê Hằng Hà Sa kiếp thứ hai, trong kiếp gọi là Ratnaprabhāsa - Ánh Sáng Ngọc Quý, sẽ có một cõi Phật tên là Ratnasañcaya - Tích Tụ Ngọc Quý. Trong hành tinh có bốn châu thiên hạ này, ông sẽ thành đức Thế Tôn hiệu là Ratnacchatra-ābhyudgata-raśmi - Ánh Sáng Lọng Ngọc Quý Vươn Lên Rực Rỡ Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Lúc ấy, này thiện nam tử, Bồ Tát Tiêu Trừ Mọi Tăm Tối Bằng Ánh Sáng gieo năm chi phần thân thể sát đất, đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai.
Khi ấy, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Hãy đứng lên, bậc lìa cấu uế,
Là chúng sinh hoàn toàn thanh tịnh,
Sẽ cứu độ hàng tỷ chúng sinh,
Ông sẽ là bậc có con đường,
Thanh tịnh tối thắng để Tỉnh Thức,
Sẽ là bậc Chiến Thắng tối thắng,
Vị lãnh đạo dẫn đường chúng sinh.
Lúc bấy giờ, có 1.000 thanh niên và 30 triệu thanh niên đã phát nguyện thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong cõi Phật này. Tất cả những vị ấy đều được đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai thọ ký. Cho đến thời các đức Phật Vipaśyī, Śikhī, Viśvabhu cho đến các đức Phật sau cùng, tất cả các thanh niên ấy đều đã được thọ ký.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho Bà-la-môn Vāyuviṣṇu - Gió Thần Viṣṇu
Ở đó, trong số những vị Bà-la-môn tụng đọc ngàn bộ kinh điển Vệ-đà, vị trưởng thượng nhất, được mọi người tôn kính là bậc thầy, tên là Vāyuviṣṇu.
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Vāyuviṣṇu đứng trước đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai thưa rằng:
Thưa đức Thế Tôn, con nguyện ở trong cõi Phật có năm thứ cấu uế, sẽ đạt tới Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Con sẽ thuyết pháp cho những chúng sinh có tham dục cực mạnh, sân hận cực mạnh, và si mê cực mạnh.
Có một thanh niên tên là Jyotipāla - Người Giữ Ánh Sáng Lửa, hỏi vị đại thần tư tế tối cao rằng:
Thưa thầy, vì lý do gì mà Bà-la-môn Vāyuviṣṇu lại phát nguyện ở cõi Phật có đủ năm thứ cấu uế như thế?
Vị đại thần tư tế tối cao đáp:
Bồ Tát thấm nhuần đầy đủ tâm đại bi mahā-karuṇā sẽ thành tựu Tỉnh Thức ở cõi Phật có năm thứ cấu uế. Ngài trở thành lợi ích cho những chúng sinh không có chỗ nương tựa, không có nơi quay về, bị phiền não quấy nhiễu, rơi vào khổ hoạn do tà kiến. Ngài trở thành chỗ che chở, nơi nương tựa, cứu vớt chúng sinh ra khỏi biển sinh tử, đưa họ ra khỏi trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, và an lập họ vào chánh kiến, và làm cho họ được no đủ bằng vị bất tử của Niết-bàn, trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối.
Đây chính là đại bi mahā-karuṇā của Bồ Tát, được thấy nơi những vị phát nguyện ở cõi Phật có năm thứ cấu uế.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Này Vāyuviṣṇu, sau khi trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, và phần còn dư lại của 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, ở phương Đông, vượt qua số cõi Phật nhiều như số hạt hạ lượng tử trong cõi Phật, sẽ có một thế giới tên là Kaṣāyadhvaja - Cờ Kaṣā.
Tại đó, ông, này thiện nam tử, sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giácvà trở thành Đức Phật hiệu là Śālendrarāja - Vị Vua Chúa Tể Cây Śāla Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Ngay khi vừa được thọ ký, Vāyuviṣṇu thưa với đức Thế Tôn rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nếu nguyện vọng như vậy của con được viên mãn, thì khi con đảnh lễ dưới chân Ngài bằng năm chi phần thân thể cung kính, xin đức Thế Tôn đặt cả hai bàn chân, được trang nghiêm bởi bốn tướng công đức, lên đỉnh đầu con.
Khi ấy, này thiện nam tử, Bồ Tát Vāyuviṣṇu cúi đầu đảnh lễ dưới chân của đức Thế Tôn, thì đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đặt cả hai bàn chân lên đỉnh đầu của Bồ Tát Vāyuviṣṇu và nói rằng:
Hãy đứng dậy, bậc tâm đại bi,
Bậc có đủ tuệ giác sắc bén,
Hãy thực hành lối sống Tỉnh Thức,
Vì nhân duyên tối thượng Tỉnh Thức.
Hãy chặt đứt trói buộc phiền não,
Bằng sức mạnh vững chãi kiên cố,
Ông sẽ thành đức Phật Toàn Giác,
Bậc thương xót cứu giúp chúng sinh.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho thanh niên Jyotipāla - Người Giữ Ánh Sáng Lửa
Khi ấy, này thiện nam tử, thanh niên Jyotipāla - Người Giữ Ánh Sáng Lửa, quỳ gối phải chạm đất trước đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, và thưa rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, con phát khởi tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong cõi Phật này, đối với chúng sinh có đồng phần tâm tham, sân, si, tâm chưa an trụ vào thiện hay bất thiện, con nguyện chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác khi dân chúng có tuổi thọ 40.000 năm.
Đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Sau khi trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp, và phần còn dư lại của a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, sẽ có một thế giới tên là Sahā - Ta Bà - Đồng Hành Đi Chung.
Vì sao gọi là Sahā?
Bởi vì chúng sinh ở đó cùng chia sẻ tham, sân, si, và cùng mang các trói buộc của phiền não. Do nguyên nhân đó, thế giới ấy gọi là Sahā - Đồng Hành Đi Chung.
Tại thế giới Sahā sẽ có một đại kiếp mang tên Bhadraka - Thiện Hiền. Vì sao gọi là Thiện Hiền?
Vì trong đại kiếp Bhadraka - Thiện Hiền đó, sẽ có 1.000 đức Phật Thế Tôn đầy lòng đại bi mahā-kāruṇikā xuất hiện để giáo hóa chúng sinh có lối sống thuộc tham, sân, si.
Ông, này thiện nam tử, khi đã vào đại kiếp Thiện Hiền, trong thời dân chúng có tuổi thọ 40.000 năm, sẽ là người đầu tiên chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ông sẽ trở thành đức Phật hiệu Krakutsanda - Lập Địa Hoan Hỷ Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn, sẽ thuyết pháp bằng ba thừa, cứu độ vô số chúng sinh đang chìm đắm trong dòng sông luân hồi sinh tử, trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng; và an lập họ nơi bờ bên kia của Niết-bàn, trong trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối.
Khi ấy, này thiện nam tử, Bồ Tát Jyotipāla đảnh lễ dưới chân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng năm chi phần thân thể sát đất, rồi lui sang đứng một bên.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho thanh niên Tumburu
Khi ấy, này thiện nam tử, thanh niên thứ hai tên là Tumburu, ngồi trước đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, và thưa rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, con sẽ thành một đức Phật Toàn Giác trong đời sống khi con người có tuổi thọ 30.000 năm, tiếp nối sau đức Thế Tôn Krakutsanda - Lập Địa Hoan Hỷ Như Lai.
Đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Này thanh niên, sau khi trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, và phần còn dư lại của a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, trong cõi Phật Sahā thuộc đại kiếp Hiền Thiện, tiếp nối sau đức Thế Tôn Krakutsanda - Lập Địa Hoan Hỷ Như Lai, khi dân chúng có tuổi thọ 30.000 năm, ông sẽ thành đức Thế Tôn hiệu là Kanakamuni - Kim Thánh - Bậc Thánh Hoàng Kim Tĩnh Lặng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, danh tiếng vang khắp thế gian.
Nghe lời thọ ký từ đức Thế Tôn, vị ấy đảnh lễ dưới chân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng trán, đi nhiễu quanh theo chiều bên phải, rồi đứng đối diện. Vị ấy rải hoa lên thân đức Thế Tôn, chắp tay và dùng kệ tán thán rằng:
Lời Ngài khéo khớp, đầy hoan hỷ,
Dịu ngọt, không vấp váp, rối loạn,
Hoàn toàn trong sạch, thật tinh khiết.
Tâm an trú vững vàng rất sâu,
Tuệ mati sỡ hữu vượt bậc.
Bậc tiên nhân chói lọi sáng rực,
Bậc hiền thánh tối thượng tĩnh lặng,
Như ngưu vương kéo dắt xe thân,
Ngài trọn vẹn vô lượng công đức,
Đã ban phát hàng trăm công đức.
Bậc hiền thánh tối thắng tĩnh lặng,
Ngài mang lại ai lạc trời người,
Thảy muôn loài đều quy mạng lễ,
Thật không ai sánh ngang bằng ngại,
Các chúng sinh khắp trong ba cõi,
Đã được Ngài thọ ký tối thượng,
Họ đi trên con đường Tỉnh Thức.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho thanh niên Viśvagupta - Che Chở Toàn Thế Giới
Khi ấy, này thiện nam tử, thanh niên tên Viśvagupta - Che Chở Toàn Thế Giới, đặt trước đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai một tòa ngồi làm bằng bảy báu, đã công bố và hiến cúng với giá trị 100.000 lượng vàng. Trên tòa ấy, ông đặt một bát bằng vàng, trong đó chứa một bình bằng vàng đầy bảy báu, cùng với cây gậy cũng bằng bảy báu, dâng cúng đến Tăng đoàn do đức Phật đứng đầu.
Sau khi thực hiện lễ cúng dường xong, thanh niên tên Viśvagupta thưa với đức Thế Tôn rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, trong tương lai, sau khi đã trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, và phần còn dư lại của a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, trong đại kiếp Hiền Thiện, con sẽ thành một đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Khi tuổi thọ con người đang giảm sút, khởi lên điềm báo của thời kỳ đen tối, không có chánh pháp, trong đó chúng sinh bị trói buộc bởi tham dục, sân hận, si mê, ngã mạn, ganh ghét và đố kỵ, nương tựa vào bạn ác và tà kiến, tâm bị khởi động bởi các căn giác quan bất thiện, mất đi gốc lành, tâm lìa xa chánh kiến, sống bằng tà mạng và nuôi tâm bất thiện.
Khi ấy, sau khi đức Thế Tôn Kim Thánh Như Lai đã nhập diệt, Chánh pháp biến mất, thế gian chìm trong bóng tối không bậc dẫn đường, dân chúng chỉ còn tuổi thọ 20.000 năm, con sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Này thiện nam tử, lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói với thanh niên Bà-la-môn Viśvagupta rằng:
Lành thay, lành thay, này Bà-la-môn, ông là một bậc đại trí, đầy đủ trí tuệ! Ông, này bậc thiện nhân, đã phát nguyện vào thời có điềm báo mạt pháp, khi dân chúng tuổi thọ 20.000 năm, thế gian chìm trong bóng tối không bậc dẫn đường. Vì thế, ông hãy mang danh hiệu Vidvagañja-karuṇāśraya - Trí Tuệ Tập Hợp Nương Tựa Lòng Từ Bi. Trong tương lai, sau khi đã trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, phần còn dư lại của a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, trong thế giới Sahā, thuộc đại kiếp Hiền Thiện, khi dân chúng có tuổi thọ 20.000 năm, ông sẽ thành đức Thế Tôn hiệu là Kāśyapa - Đại Địa Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Khi ấy, này thiện nam tử, Bồ Tát Trí Tuệ Tập Hợp Nương Tựa Lòng Từ Bi đảnh lễ đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng cách chạm đầu vào bàn chân Ngài với năm chi phần thân thể sát đất, rồi lui về một bên. Ngài rải các loại hoa, tràng hoa và bột hương thơm cúng dường đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, và tán thán Ngài bằng các bài kệ như sau:
Bậc tối thượng ở trong loài người,
Đấng làm lợi ích, đem an lạc
Là cha sinh muôn loài chúng sinh,
Người có gương mặt luôn mỉm cười,
Tâm hoan hỷ, lời nói ngọt ngào.
Bậc khéo léo trí biết cảnh giới,
Làm lợi ích tất cả chúng sinh,
Bậc đứng đầu mang đủ 10 lực,
Người đầy đủ trí tuệ, thiền định,
Giải thoát và các ba-la-mật,
Con đảnh lễ Ngài, bậc Thiện Thệ.
Người thực hành vô số hạnh nguyện,
Gương mặt tỏa sáng như hoa nở,
Đã được thọ ký cho quả Tỉnh Thức.
Do Ngài, vô số tỷ Bồ Tát,
Các chúng sinh đã được thọ ký,
Chúng con thành tâm đảnh lễ Ngài,
Bậc tối thượng ở trong loài người,
Đức Thiện Thệ Như Lai Toàn Giác.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho thanh niên Vimalavaiśāyana - Bậc Trú Nơi Thanh Tịnh Hoàn Toàn Trong Sạch
Khi ấy, này thiện nam tử, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử khuyến khích người học trò thứ tư, tên là Vimalavaiśāyana - Cư Trú Nơi Thanh Tịnh Hoàn Toàn Trong Sạch.
Khi ấy, này thiện nam tử, thanh niên Cư Trú Nơi Thanh Tịnh Hoàn Toàn Trong Sạch đứng trước đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai và thưa rằng:
Cũng như thế, con nguyện cầu thành Tỉnh Thức trong đại kiếp Hiền Thiện này, nhưng không chỉ riêng ở thời kỳ đen tối, không có chánh pháp. Như khi đức Thế Tôn Kāśyapa Như Lai nhập Niết Bàn, trong thời dân chúng thọ 10.000 năm, có những chúng sinh đã mất đi tâm dõng mãnh trong bố thí và nhiếp phục, không có bảy thứ của báu, nương tựa bạn ác nhưng lại xem là bậc Thầy. Họ không còn quan tâm đến ba loại tích luỹ công đức, xa lìa ba hạnh lành mà lại dấn thân vào ba hạnh ác, tâm bị quấy nhiễu bởi bóng tối của phiền não. Không còn quan tâm đến cả ba thừa, nên vào thời ấy không còn có ai thành tựu được lối sống Bồ Tát.
Huống chi trong thời dân chúng thọ 1.000 năm, khi các chúng sinh ấy chỉ còn tuổi thọ 100 năm, thì lúc ấy ngay cả gốc rễ thiện căn cũng không còn, huống nữa là việc tu tập lối sống căn lành.
Khi đó, trong thế giới đầy đủ năm thứ cấu uế, tuổi thọ giảm xuống chỉ còn 10 năm, và khi kiếp Sastrāntara - Binh Khí sắp đến, vào lúc ấy con sẽ từ cõi trời giáng xuống để cứu độ các chúng sinh, loại bỏ điều ác và hướng dẫn họ vào điều thiện.
Con sẽ làm cho họ an trụ trong 10 con đường nghiệp thiện, và sẽ tịnh hóa các phiền não của chúng sinh bằng các con đường nghiệp thiện ấy. Con cũng sẽ dứt bỏ thế giới năm uế trược. Cho đến khi trong thời dân chúng thọ 80.000 năm, con sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ thuyết pháp cho những chúng sinh có ít tham, sân, si, nhưng vẫn còn vô minh, tật đố, ganh ghét, và sẽ đưa họ vào cả ba thừa.
Nếu, thưa đức Thế Tôn, lời nguyện của con như thế này được viên mãn, xin bậc Hiền Thánh, xin đức Thế Tôn thọ ký cho con quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Còn nếu, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, con không nhận được lời thọ ký như thế này, thì con sẽ cầu quả vị Thanh Văn hay Độc Giác Phật — vì những thừa ấy là con đường để mau chóng thoát khỏi sinh tử luân hồi, đạt được trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối.
Bốn loại tài sản cho vay nặng lãi của Bồ Tát
Đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Này Bà-la-môn, có bốn loại tài sản phi pháp từ việc cho vay nặng lãi thuộc về Bồ Tát. Những Bồ Tát nào bị nhiễm ô bởi các tài sản phi pháp ấy, thì chỉ trong một đời đã trở thành những người kéo dài sự luân hồi, làm tăng trưởng trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, khi sa vào kiến chấp, đi lại trong vòng tròn sinh tử mà phải chịu nhiều khổ đau, và không thể nhanh chóng đạt đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bốn loại tại sản phi pháp từ việc cho vay năng lãi ấy là gì?
Đó là ở trong đời sống hiện tại:
Bồ Tát trở thành người có lối sống thấp kém, hành vi đê hèn, hạ tiện, thiếu phẩm hạnh (hīnā-cāra).
Bồ Tát có bạn đồng hành thấp kém, kẻ xấu, bạn ác, với hành vi đê hèn, hạ tiện, thiếu phẩm hạnh (hīna-sahāyaḥ).
Bồ Tát bố thí thấp kém, keo kiệt, bỏn sẻn, tiếc của khi đem cho người khác (hīna-parityāgaḥ).
Bồ Tát có sự phát nguyện thấp kém, có mục tiêu thấp hèn, không đi đúng con đường Tỉnh Thức (hīna-praṇidhiḥ).
Thế nào là Bồ Tát có lối sống thấp kém?
Ở đây, trong một đời này, vị ấy có giới hạnh xấu, thân, khẩu và ý không được chế ngự; thường giao du với những người thuộc thừa Thanh Văn và thừa Độc Giác Phật; không phải là người từ bỏ tất cả, cũng không phải là người từ bỏ trong mọi trường hợp; khi bố thí, thì mong cầu sự vinh hoa và khoái lạc của cõi trời và loài người; không có ý hướng tiếp nhận các sự trang nghiêm công đức của cõi Phật; và phát nguyện mà không cân nhắc đến những chúng sinh cần được giáo hóa.
Bởi hội đủ bốn pháp này, Bồ Tát lười nhác phải trải qua khổ đau lâu dài trong vòng tròn luân hồi, mắc kẹt trong trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, và không nhanh chóng đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bốn pháp mau chóng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
Ngược lại, Bồ Tát nào đầy đủ bốn pháp sau đây sẽ mau chóng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác:
Là người giữ giới, hành trì nghiêm mật bằng thân, lời nói và ý nghĩ,
Thường giao du với những người đã phát tâm và đang tiến bước trên cỗ xe Đại Thừa và thực hành lối sống Bồ Tát,
Thực hành xả bỏ tất cả, ở mọi nơi đều xả bỏ, khởi tâm từ bi để cứu độ chúng sinh thoát khỏi khổ đau,
Lập tâm nguyện hướng đến công đức trang nghiêm của cõi Phật, xét đến căn cơ của chúng sinh cần giáo hóa, phát và thọ nhận đại nguyện.
Bồ Tát nào đầy đủ bốn pháp này thì sẽ mau chóng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bốn pháp trợ duyên, nâng đỡ và làm kiên cố con đường của Bồ Tát
Có bốn pháp là nền tảng nâng đỡ, trợ duyên và làm kiên cố cho con đường của Bồ Tát. Thế nào là bốn?
Tinh cần nỗ lực tu tập duy thức các Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia (pāramitāsu abhiyogaḥ),
Xả bỏ, hiến tặng, bố thí tài vật, phương tiện, để nhiếp hoá, dẫn dắt và làm cho chúng sinh quy thuận (sattvānāṃ saṃgraha-vastu-utsargaḥ),
Thành tựu lối sống trú trong Phạm hạnh thanh tịnh, hoàn toàn trong sạch với bốn tâm vô lượng Từ Bi Hỷ Xả (brahma-vihāra-abhiniṣpādanatā),
Tự chủ vận dụng các thần thông (abhijñā-vikrīḍanātā).
Bốn pháp không bao giờ biết thoả mãn, luôn mong cầu tăng trưởng, mở rộng thêm nữa, không bao giờ biết đủ của Bồ Tát
Bồ Tát cần phải sống với bốn pháp không bao giờ biết thoả mãn, luôn mong cầu tăng trưởng, mở rộng thêm nữa, không bao giờ biết đủ, đó là:
Không biết thoả mãn, luôn mong cầu tăng trưởng, mở rộng thêm nữa trong việc bố thí (dāna-ātṛptatā),
Không biết thoả mãn, luôn mong cầu tăng trưởng, mở rộng thêm nữa trong việc nghe pháp (dharma-śravaṇa-ātṛptatā),
Không biết thoả mãn, luôn mong cầu tăng trưởng, mở rộng thêm nữa trong tu tập thiền định (bhāvanā-ātṛptatā),
Không biết thoả mãn, luôn mong cầu tăng trưởng, mở rộng thêm nữa trong việc xả bỏ, hiến tặng, bố thí tài vật, phương tiện, để nhiếp hoá, dẫn dắt và làm cho chúng sinh quy thuận (sattvebhyaḥ saṅgraha-vastu-ātṛptatā).
Bốn kho tàng vô tận cần phải được làm cho đầy tràn của Bồ Tát
Bồ Tát cần phải làm đầy đủ bốn kho báu vô tận. Thế nào là bốn?
Lòng tin vào Phật Toàn Giác, lòng tin vào Chánh Pháp, lòng tin vào Thánh Tăng thanh tịnh là kho tàng vô tận cần được làm cho đầy tràn,
Giảng dạy chánh pháp là kho tàng vô tận cần được làm cho tràn đầy (dharma-deśanā),
Sự hồi hướng công đức của mình đến tất cả chúng sinh và hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là kho tàng vô tận cần được làm cho tràn đầy (pariṇāmanā),
Sự nhiếp thọ và giúp đỡ những chúng sinh nghèo khổ là kho tàng vô tận cần được làm cho tràn đầy (daridra-sattva-parigrahaḥ).
Bốn sự hoàn toàn thanh tịnh của Bồ Tát
Có bốn sự hoàn toàn thanh tịnh của Bồ Tát:
Giới hoàn toàn thanh tịnh do bản tánh không có tự ngã (nairātmyatā),
Chánh định samādhi hoàn toàn thanh tịnh do bản tánh không có chúng sinh (niḥsattvatā),
Tuệ giác prajñā hoàn toàn thanh tịnh do bản tánh không có sinh mạng (nirjīvatā),
Giải thoát hoàn toàn thanh tịnh do bản tánh không có cá nhân (niṣpudgalatā) và do bản tánh của cái thấy và trí tuệ vốn giải thoát (vimukti-jñāna-darśanatā).
Bồ Tát cần phải viên mãn bốn pháp này, nhờ đó vị ấy sẽ mau chóng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe như hư không, chuyển bánh xe không thể nghĩ bàn, bánh xe không gì so sánh được, chuyển bánh xe không thể diễn tả bằng lời, chuyển bánh xe đưa đến xuất ly, chuyển bánh xe đưa đến quyết định, và chuyển bánh xe bất động.
Ông, này Vimalavaiśāyana, trong tương lai, sau khi đã trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, và vào phần còn lại của a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, khi mới đi vào đại kiếp Hiền Thiện, vào thời năm ô trược đã lắng dịu, thọ mạng của chúng sinh tăng lên đến 80.000 năm, sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và sẽ trở thành một đức Thế Tôn hiệu là Maitreya - Di Lặc Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Cư Trú Nơi Thanh Tịnh Hoàn Toàn Trong Sạch, sau khi đã đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng năm chi phần thân thể sát đất, đứng sang một bên, chuẩn bị cúng dường đức Thế Tôn bằng hoa, vòng hoa và bột hương, liền tán thán đức Thế Tôn bằng kệ tụng:
Bậc Tôn Quý, trán rộng uy nghi,
Với tướng lông trắng giữa chặng mày,
Tỏa sáng đẹp đẽ, sắc như tuyết,
Thân tựa đỉnh núi vàng rực rỡ,
Ngài là nơi nương tựa cho con.
Bậc Thánh Tĩnh Lặng như trâu chúa,
Ngài là ngọn đuốc sáng thế gian,
Với đầy đủ hàng trăm công đức,
Thời khắc này con xin thưa rằng,
Xin Ngài trở thành đèn soi sáng,
Đèn Toàn Giác chiếu sáng cõi Phật.
Tất cả, do Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, vị đại thần tư tế tối cao, đều đã khiến cho 1.000 vị tụng đọc kinh Vệ-đà phát tâm Tỉnh Thức, như là các vị Krakutsanda, Kanakamuni, Kāśyapa, Di Lặc Maitreya đã được thọ ký, thì cũng vậy, các vị như Sư tử (Siṃha), Chiếu sáng (Pradyota), cho đến gấp đôi số 1.000 vị tụng đọc kinh Vệ-đà, tất cả các vị thanh niên ấy đều ở trong kiếp Hiền Thiện này đã phát nguyện thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tất cả đều được đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai an lập thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ngay trong kiếp Hiền Thiện này.
Khuyến khích thanh niên Mahābalavegadhārī - Người Mang Sức Mạnh Lớn Và Tốc Độ Vĩ Đại phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
Trong số đó, vị thanh niên trẻ nhất được vị đại thần tư tế tối cao khuyến khích rằng:
Này thanh niên Mahābalavegadhārī - Người Mang Sức Mạnh Lớn Và Tốc Độ Vĩ Đại, sao lại nhìn xa xăm lâu vậy? Hãy khởi tâm Đại Bi mahākaruṇā đối với chúng sinh.
Rồi dùng những bài kệ để khuyên rằng:
Những chúng sinh sợ hãi trước già,
Vì sợ hãi trước bệnh và chết,
Đã rơi vào dòng sông khát ái,
Bị quăng ném guồng quay sinh tử,
Và bị cột chặt nơi gánh nặng,
Đầy hiểm nguy ở nơi năm uẩn.
Họ đã uống chất độc của phiền não,
Tự hại nhau, ăn nuốt lẫn nhau,
Họ đứng yên ở trong biển khổ.
Bị ám trong bóng tối vô minh,
Mất lối đi, lang thang phiêu bạt,
Trong guồng máy bất thiện luân hồi.
Bị thiêu đốt khổ đau ba cõi,
Họ an trụ vững trong tà kiến.
Tất cả hữu tình đều trôi lăn,
Phải chìm ngụp ở trong năm đường,
Như bánh xe luôn xoay vòng tròn.
Hãy nhớ nghĩ đến các chúng sinh,
không nơi nương tựa, không mắt pháp,
Họ trôi lăn ở trong năm đường.
Hãy bỏ mọi nghi hoặc đời sống,
Hãy phát khởi chí nguyện mạnh mẽ,
Vì Tỉnh Thức ở nơi chính mình.
Hãy thành bậc tiêu trừ khát ái,
Và sầu muộn cho khắp thế gian,
Trở thành người thân thiết từ tái,
Bạn lành của tất cả chúng sinh.
Vì muốn giải thoát cho thế gian,
Khỏi trói buộc tất cả phiền não,
Hãy cúi tâm hướng đến Tỉnh Thức.
Hãy ban cho con đường tối thượng,
Dẫn ra khỏi vô minh mờ ám,
Cho những ai không có mắt pháp.
Con hãy làm thỏa mãn tất cả,
Những kẻ đang bị khổ đốt cháy,
Trong guồng quay luân hồi sinh tử,
Bằng vị ngọt cam lộ chánh pháp.
Con, hãy mau chóng nhanh tiến đến,
Vị ẩn sĩ Thánh Nhân Tĩnh Lặng,
Bậc Tối Thượng Trong Loài Hai Chân,
Làm lợi ích tất cả chúng sinh,
Con hãy xin đảnh lễ đức Phật.
Này thiện hữu, con hãy phát nguyện,
Các lời nguyện vững chắc cao quý,
Để trở thành đức Phật Toàn Giác,
Bậc dẫn đường cho cả thế gian.
Hãy trở thành hơi thở sinh lực,
Cho chúng sinh ở trong thế gian,
Hãy cứu vớt biển cả chúng sinh.
Hãy thành người trao đường giải thoát,
Căn giác quan, và các sức mạnh,
Các yếu tố chi phần Tỉnh Thức.
Hãy tuôn mưa pháp từ mây pháp,
Để làm dịu khổ đau chúng sinh.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, thanh niên Mahābalavegadhārī - Người Mang Sức Mạnh Lớn Và Tốc Độ Vĩ Đại, nói rằng:
Thưa thầy, con không mong cầu sự vinh hoa của cảnh giới luân hồi sinh tử, không mong cầu sự hưởng thụ trong trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, cũng không ưa thích pháp của Thanh Văn hay Độc Giác Phật. Con chỉ mong cầu cỗ xe Thừa Tối Thượng. Xin thầy hãy chờ trong giây lát, sau đó hãy lắng nghe cách con cất tiếng rống sư tử.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho 5 thiếu niên Bà-la-môn là thư ký thị giả của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử
Này thiện nam tử, trong thời gian chờ đợi thanh niên Mahābalavegadhārī - Người Mang Sức Mạnh Lớn Và Tốc Độ Vĩ Đại suy nghĩ lựa chọn cách trang nghiêm cõi Phật của mình, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử gọi 5 vị thiếu niên Bà-la-môn, là thư ký thị giả của mình, và nói rằng:
Này các con, hãy phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, các thiếu niên ấy thưa rằng:
Chúng con không có thứ gì để có thể dâng cúng lên đức Phật và Tăng đoàn Tỳ Kheo; vậy thì làm sao chúng con, với căn lành chưa được tròn đầy, lại có thể phát khởi tâm Tỉnh Thức được?
Bấy giờ, này thiện nam tử, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, vị đại thần tư tế tối cao, đã đem các tư trang của mình để tặng cho 5 thiếu niên thị giả của mình như sau:
Đôi hoa tai bằng bảy báu tặng cho thiếu niên thị giả thứ nhất tên là Karabhuja - Người có đôi tay mạnh mẽ.
Chiếc vòng tay bằng bảy báu tặng cho thiếu niên thị giả thứ hai tên là Sthālabhuja - Người có đôi tay vạm vỡ.
Toà ngồi bằng bảy báu tặng cho thiếu niên thị giả thứ ba tên là Jalabhuja - Người có đôi tay uyển chuyển như nước.
Cây gậy bằng bảy báu tặng cho thiếu niên thị giả thứ tư tên là Vegabhuja - Người có đôi tay tốc lực mạnh mẽ; và
Chiếc bình toàn bằng vàng tặng cho thiếu niên thị giả thứ năm tên là Sārabhuja - Người có đôi tay sức mạnh tinh tuý nội tại.
Sau khi tặng tư trang riêng của mình cho 5 thiếu niên thị giả xong, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử nói rằng:
Các vật này bây giờ hoàn toàn thuộc về các con, tuỳ ý các con sử dụng. Này các con, hãy đem những vật này cúng dường đức Phật và Tăng đoàn Tỳ Kheo, với đức Phật là vị đứng đầu, rồi phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, 5 vị thiếu niên thị giả ấy đi đến chỗ đức Thế Tôn, dâng cúng các vật vừa được tặng lên đức Phật và Tăng đoàn với đức Phật là vị đứng đầu, rồi thưa rằng:
Nguyện đức Thế Tôn thọ ký cho chúng con quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và trong đại kiếp Hiền Thiện này, chúng con sẽ thành tựu quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Khi ấy, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đã thọ ký rằng:
– Thiếu niên Karabhuja này, vì lợi ích chúng sinh, trong đại kiếp Hiền Thiện này sẽ thành Phật hiệu là Dṛḍhasvara - Âm Thanh Kiên Cố Như Lai.
– Tiếp đó, thiếu niên Sthālabhuja sẽ thành Phật hiệu là Sukhendriyamati - Căn Giác Quan An Lạc Tuệ Mati Tỉnh Thức Như Lai.
– Sau đó, thiếu niên Jalabhuja sẽ thành Phật hiệu là Sārthavādi - Bậc Nói Chân Thật Như Lai.
– Kế tiếp, thiếu niên Vegabhuja sẽ thành Phật hiệu là Priyaprasanna - Hoan Hỷ Đáng Mến Như Lai.
– Cuối cùng, thiếu niên Sārabhuja sẽ thành Phật hiệu là Haripatracūḍa - Đỉnh Hoa Lá Vàng Như Lai.
Lời phát nguyện và Thọ ký cho thanh niên Mahābalavegadhārī - Người Mang Sức Mạnh Lớn Và Tốc Độ Vĩ Đại - Bồ Tát Dược Vương
Ngay sau khi năm thiếu niên ấy được thọ ký sẽ thành Phật trong kiếp Hiền Thiện này, vị đại thần tư tế tối cao lại nói với thanh niên Mahābalavegadhārī - Người Mang Sức Mạnh Lớn Và Tốc Độ Vĩ Đại rằng:
Này Mahābalavegadhārī, hãy tiếp nhận các công đức trang nghiêm của cõi Phật, hãy phát nguyện trước đức Thế Tôn như điều con mong muốn, hãy mời gọi tất cả chúng sinh cùng thọ hưởng vị ngọt cam lồ của Chánh Pháp, và hãy thực hành lối sống Tỉnh Thức của mình với tinh tấn kiên cố, chớ còn do dự nhìn lâu nữa.
Nói rồi, ông nắm lấy cánh tay của Mahābalavegadhārī và dẫn đến gần đức Thế Tôn.
Lúc ấy, này thiện nam tử, thanh niên Mahābalavegadhārī, ngồi trước đức Thế Tôn, và thưa rằng:
Thưa đức Thế Tôn, trong thời vị lai, có bao nhiêu các Bậc Thánh Mặt Trời Tĩnh Lặng sẽ xuất hiện trong đại kiếp Hiền Thiện này?
Đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai nói rằng:
Này thanh niên, trong đại kiếp Hiền Thiện này sẽ có 4.000 Bậc Thánh Mặt Trời Tĩnh Lặng xuất hiện.
Thanh niên Mahābalavegadhārī thưa rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, kể từ ngay lúc này cho đến khi vị cuối cùng trong số các Bậc Thánh Mặt Trời Tĩnh Lặng đã nhập Niết-bàn trong đại kiếp Hiền Thiện này, vào thời kỳ mà vị thiếu niên Sārabhuja thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ thành đức Phật hiệu là Haripatracūḍa - Đỉnh Hoa Lá Vàng Như Lai, thì trong suốt thời gian dài ấy, con sẽ thực hành lối sống Bồ-tát, tích lũy đầy đủ các hành trang gồm: nhiều loại hạnh nguyện và giới nguyện (vrata), khổ hạnh (tapa), thực hành các lối sống (caryā), bố thí (dāna), nhiếp phục (dama), tự chế và điều phục (saṃyama), nghe rộng học nhiều (śruta), tinh tấn (vīrya), nhẫn nhục (kṣānti), thuần hòa, thiện ý (sauratya), công đức (puṇya) và tuệ giác (prajñā).
Con sẽ dâng bữa cơm đầu tiên cho tất cả các vị Phật mới thành Chánh Giác trong kiếp Hiền Thiện ấy. Đối với các đức Phật đã nhập Niết-bàn, con sẽ thực hiện sự cúng dường xá-lợi của các Ngài. Con sẽ là người giữ gìn Chánh pháp của các Ngài.
Con sẽ hướng dẫn, đưa vào và an lập những chúng sinh thiếu giới hạnh vào sự thành tựu giới hạnh. Những chúng sinh mất chánh kiến, rơi vào cảnh nguy nan, con sẽ hướng dẫn họ vào, đưa vào và an lập nơi chánh kiến. Những người thiếu tâm nguyện chân chánh, con sẽ an lập vào tâm nguyện đúng đắn.
Những người không có lối sống đúng con sẽ an lập vào lối sống đúng. Đối với các loại chúng sinh khác nhau, con sẽ chỉ bày các lối sống lành. Sau khi Chánh pháp của các đức Phật Thế Tôn ấy mới diệt, con sẽ là người dẫn dắt Chánh pháp, thâu giữ Chánh pháp, làm cho Chánh pháp khởi lên, và thắp sáng ngọn đèn Chánh pháp trong thế gian.
Vào thời kỳ của kiếp có vũ khí chiến tranh, con sẽ an lập chúng sinh vào sự tránh xa sát sinh, cho đến khi vào được chánh kiến. Con sẽ cứu chúng sinh khỏi các đường tà của 10 ác nghiệp, đặt họ vào con đường chơn chánh. Con sẽ tiêu diệt bóng tối của các lối sống bất thiện. Con sẽ chỉ bày ánh sáng của các lối sống lành. Con sẽ tiêu trừ sự uế trược của kiếp, cho đến cả những uế trược do tà kiến trong đời.
Vào thời kỳ của kiếp đói kém, con sẽ hướng dẫn chúng sinh vào bố thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia, cho đến khi dẫn họ vào và an lập nơi Tuệ Giác Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia (prajñā-pāramitā). Khi dẫn dắt chúng sinh tu tập sáu Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia, con sẽ làm lắng dịu mọi bóng tối của nạn đói, cũng như mọi ô trược của thời kỳ đen tối, không có chánh pháp, chiến tranh, tranh chấp và cãi vã. Con sẽ dập tắt ngọn lửa phiền não trong dòng sinh mệnh của chúng sinh.
Vào thời kỳ của kiếp có dịch bệnh, con sẽ dẫn dắt chúng sinh thực hành sáu pháp là chỗ quy y. Con sẽ hướng dẫn và an lập họ vào bốn nhiếp pháp. Con sẽ tiêu diệt bóng tối của bệnh tật trong chúng sinh, cho đến khi làm lắng dịu phiền não trong dòng sinh mệnh của họ.
Trong toàn bộ các cõi Phật ở đại kiếp Hiền Thiện, con sẽ giải thoát tất cả chúng sinh khỏi những tai ương như thế.
Khi 4.000 đức Phật Thế Tôn trong đại kiếp Hiền Thiện đã xuất hiện và nhập Niết-bàn, và toàn bộ tất cả con mắt Chánh pháp đã diệt mất, thì ngay sau đó con sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tuổi thọ của con sau khi thành đạo sẽ dài bằng tuổi thọ của các đức Phật Thế Tôn trong đại kiếp Hiền Thiện trong số 4.000 vị Phật. Số lượng Tăng đoàn Thanh văn của con sẽ bằng với Tăng đoàn Thanh văn của mỗi vị trong số họ. Số lượng chúng sinh mà 4.000 đức Phật trong các kiếp đã giáo hóa, con cũng sẽ giáo hóa số chúng sinh bằng với số ấy.
Những ai trong số hàng Thanh văn của các đức Phật Thế Tôn ấy lầm lỡ trong sự tu học, hoặc rơi vào sự đọa lạc về tà kiến, hoặc đối với các đức Phật Thế Tôn mà sinh tâm bất kính và tâm hư hoại, hoặc trong pháp và Tăng mà có tâm sai lệch, hoặc tâm bị nhiễm dục, phỉ báng bậc Thánh, hoặc tạo các tội vô gián — thì khi con thành Tỉnh Thức, con sẽ cứu tất cả họ ra khỏi bùn lầy luân hồi sinh tử, thoát khỏi trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, và đưa họ vào thành phố vô úy tức là thành Niết-bàn, yên ổn tận hưởng trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối.
Bao lâu sau khi con nhập Niết-bàn mà Chánh pháp chưa diệt mất, thì trong đại kiếp Hiền Thiện con sẽ không diệt tận.
Khi Chánh pháp của con đã an trụ, và đại kiếp Hiền Thiện cũng an trụ, thì các xá-lợi của con — là thân con do sinh ra — sẽ hóa hiện vô lượng vô số hình tượng Như Lai, mỗi thân đều được trang nghiêm với 32 tướng tốt của bậc Đại nhân, và mỗi tướng lại được trang nghiêm bởi 80 vẻ đẹp tùy hình hảo. Những hình tượng Như Lai ấy, sẽ đi đến khắp vô lượng vô biên các cõi không có Phật trong mười phương. Mỗi hình tượng Phật sẽ dẫn dắt, đưa vào và an lập vô lượng vô số chúng sinh trong cả ba thừa. Ở bất cứ cõi Phật nào trong thời trung kiếp mà Chánh pháp chưa diệt mất, thì hình tượng Như Lai sẽ cứu độ chúng sinh, như đã nói ở trước.
Sau đó ngọc như ý sẽ xuất hiện. Tại những cõi Phật mà chúng sinh thiếu thốn châu báu, các hình tượng Như Lai ấy sẽ đến ấ và làm mưa châu báu, đồng thời chỉ bày các kho tàng.
Tại những cõi Phật mà chúng sinh không làm các việc lành, bị khổ não vì sợ bệnh tật, các hình tượng Như Lai ấy sẽ làm mưa hương thơm theo thời tiết của hương chiết xuất từ sừng trâu và rắn gośīrṣa-uraga-sāra. Và trận mưa hương thơm ấy sẽ làm lắng dịu các bệnh phiền não, bệnh tà kiến và bệnh nơi thân của chúng sinh. Sau đó những chúng sinh ấy sẽ siêng năng làm các việc phước, và hướng đến cõi trời.
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, thực hành lối sống Bồ Tát như thế này, con sẽ cứu độ chúng sinh. Khi thành Tỉnh Thức, con sẽ làm các Phật sự như vậy. Sau khi nhập Niết-bàn, con cũng sẽ cứu độ chúng sinh từ vô lượng vô biên cõi Phật.
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nếu nguyện như vậy của con không được viên mãn, và con không trở thành thuốc chữa bệnh cho chúng sinh, và các đức Phật Thế Tôn — những vị đang trụ trì, an lập, duy trì và thuyết pháp cho chúng sinh trong mười phương vô lượng vô biên thế giới — lại thành ra là những vị trái lời hứa với con, thì cúi xin Thế Tôn đừng thọ ký cho con thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thưa đức Thế Tôn, nếu nguyện như thế của con không được viên mãn, thì đối với tất cả những chúng sinh đã được thọ ký thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong số vô lượng hàng tỷ chúng sinh đã phát tâm, thì con sẽ chống trái các đức Phật Thế Tôn ấy, không phụng sự, và và nếu vì nhân duyên cầu Tỉnh thức mà khi lưu chuyển trong luân hồi sinh tử, tiếng của Phật, tiếng của Pháp, tiếng của Tăng lời về điều thiện, hay lời về lối sống thiện sẽ không lọt vào tai con, và con sẽ mãi mãi đọa vào địa ngục A-tỳ (avīci). Thưa Thế Tôn, nếu nguyện như vậy của con không được viên mãn.
Bấy giờ, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đã tán thán thanh niên Mahābalavegadhārī rằng:
Lành thay, lành thay, này thiện nam tử! Ông sẽ trở thành một vị thiện nhân, là vị thuốc chữa lành cho chúng sinh, và là người cứu thoát khỏi các khổ đau. Bởi vậy ông, này thiện nam tử, hãy thành tựu danh hiệu Bhaiṣajya-rāja-jyotir-vimala - Dược Vương - Vua Thuốc Ánh Sáng Rực Rỡ Thanh Tịnh.
Này Vua Thuốc Ánh Sáng Rực Rỡ Thanh Tịnh, trong tương lai, sau khi đã vượt qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, và đi vào a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, trong đại kiếp Hiền Thiện ấy, thuộc thời kỳ có 4.000 đức Phật thành đạo không lâu, ông sẽ cúng dường bữa cơm ăn đầu tiên đúng như lời nguyện ông đã lập.
Khi Chánh pháp của đức Haripatracūḍa - Đỉnh Hoa Lá Vàng Như Lai cuối cùng trong số 4.000 đức Phật trong đại kiếp Thiện Hiền đã ẩn mất sau khi Ngài nhập Niết-bàn, ông sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và sẽ trở thành đức Thế Tôn hiệu là Rocas - Chói Sáng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Tuổi thọ của ông sẽ là nửa kiếp, và bao lâu còn có Tăng đoàn Thanh văn của 4.000 đức Phật thuộc đại kiếp Hiền Thiện, thì bấy lâu Tăng đoàn của riêng ông vẫn tồn tại, và ông sẽ giáo hóa từng ấy chúng sinh.
Sau khi ông nhập Niết-bàn, chừng nào sự diệt mất của Chánh pháp trong Đại đại kiếp Hiền Thiện chưa xảy ra, thì chừng ấy hình tượng Phật sẽ xuất hiện, cho đến khi tại các cõi không có Phật, sẽ cơn mưa hương thơm làm lắng dịu các bệnh phiền não, bệnh tà kiến và bệnh nơi thân của chúng sinh, và an lập chúng sinh vào ba loại tu phước, khiến họ hướng về cõi trời.
Bấy giờ, này thiện nam tử, Bồ Tát Bhaiṣajya-rāja-jyotir-vimala - Vua Thuốc Ánh Sáng Rực Rỡ Thanh Tịnh thưa rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nếu nguyện như vậy của con được viên mãn, thì nguyện đức Thế Tôn lấy bàn tay được trang nghiêm bằng trăm tướng phước đức chạm lên đỉnh đầu con.
Bấy giờ, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đã lấy bàn tay được trang nghiêm bằng trăm tướng phước đức xoa đỉnh đầu của Bồ Tát Vua Thuốc Ánh Sáng Rực Rỡ Thanh Tịnh, rồi đứng lại.
Bấy giờ, này thiện nam tử, Bồ Tát Vua Thuốc Ánh Sáng Rực Rỡ Thanh Tịnh hoan hỷ, hân hoan tột bậc, tâm ý vui mừng, đã dùng năm chi phần thân thể của mình đảnh lễ nơi chân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, rồi lui ra đứng một bên.
Khi ấy, Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử lấy tấm vải lụa trời khoác lên cho Bồ Tát Vua Thuốc Ánh Sáng Rực Rỡ Thanh Tịnh, rồi nói rằng:
Lành thay, lành thay, này thiện nam tử! Ông đã lập một đại nguyện tốt đẹp. Kể từ nay, ông không cần phải hầu cận ta nữa; cứ an vui mà tu hành.
Lời phát nguyện của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử - Bồ Tát Đại Bi Mahā-karuṇika
Bấy giờ, này thiện nam tử, trong tâm của Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử nghĩ rằng:
Ta đã khiến vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chúng sinh phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như ở đây ta thấy toàn thể đại hội này, với tất cả các vị Đại Bồ Tát đã lập những đại nguyện cao quý và thanh tịnh, và đã thâu nhận các cõi Phật thanh tịnh, ngoại trừ một số Bồ Tát khác như Vāyuviṣṇu, là những vị đã tránh xa thời kỳ đen tối, không có chánh pháp.
Còn ta, khi ở vào thời kỳ đen tối, không có chánh pháp, phải làm cho chúng sinh được thấm nhuần vị ngọt cam lồ của Chánh pháp, và phải thực hiện với chí nguyện kiên cố. Với đại nguyện như vậy, ta phải cất tiếng rống sư tử — để cho toàn thể hội chúng Bồ Tát này đạt được sự cảm khái kỳ diệu, và để cho toàn thể đại hội, cùng tất cả chư thiên, Càn-thát-bà, loài người và A-tu-la trong thế giới này đều chắp tay, đảnh lễ và thực hành cúng dường ta. Đức Phật Thế Tôn con của ta cũng sẽ ban lời tán thán và thọ ký cho ta. Và tất cả các đức Phật Thế Tôn ở mười phương, đang an trụ trì, giáo hoá và thuyết pháp cho chúng sinh, cũng sẽ ban lời tán thán khi ta cất tiếng rống sư tử, và sẽ thọ ký cho ta thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các Ngài cũng sẽ phái các sứ giả để toàn thể đại hội này được nghe và thấy các sứ giả ấy.
Và về sau, những vị Bồ Tát sẽ học theo ta, đầy đủ tâm đại bi mahā-karuṇā, cũng sẽ tiếp nhận bằng đại nguyện một cõi Phật nhiễm ô như vậy vào thời kỳ đen tối lớn, thời kỳ hoàn toàn không có chánh pháp, để cứu độ những chúng sinh đang bị lôi cuốn bởi dòng thác của phiền não trong cảnh đồng hoang thiếu pháp, thực hiện các Phật sự và thuyết pháp cho chúng sinh.
Cho đến sau khi ta đã nhập Niết-bàn, vượt qua vô lượng vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ kiếp, từ mười phương vô số và không thể sánh được các cõi Phật, có vô lượng các đức Phật Thế Tôn sẽ tuyên dương công hạnh của ta sau khi nhập Niết-bàn, truyền bá danh tiếng và thanh danh của ta, và trước mặt các vị Bồ Tát, sẽ khởi dậy ngọn đèn nguyện lực của ta.
Các vị Bồ Tát ấy, khi nghe đại nguyện của ta, vốn được thành tựu từ sức mạnh gia trì bởi đại bi karuṇā, sẽ đạt được sự cảm khái kỳ diệu tột bậc. Các vị ấy cũng sẽ khởi đại bi mahā-karuṇā đối với chúng sinh. Rồi các vị ấy cũng sẽ tiếp nhận một đại nguyện như thế, giống như ta hiện tại đang tiếp nhận, và cũng sẽ thành tựu Vô Thượng Tỉnh Thức trong một cõi Phật nhiễm ô như vậy.
Các vị ấy sẽ cứu độ những chúng sinh bằng cách chặn đứng bốn dòng thác phiền não của họ, giáo hóa họ bằng ba thừa, cho đến khi an trụ họ vào con đường Niết-bàn, để họ ngồi vững trong trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối.
Này thiện nam tử, vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, vị quan tư tế tối cao, sau khi đã khởi lên đại nguyện được thấm nhuần bởi tâm đại bi mahā-karuṇā, liền đắp thượng y lên một bên vai và tiến đến chỗ đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai.
Ngay khi ấy, có vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chư thiên nơi hư không tấu vang những âm nhạc trời hàng trăm ngàn triệu tỷ giai điệu, và mưa hoa rơi xuống. Tất cả đồng thanh cất tiếng rằng: “Lành thay, lành thay, thưa bậc thiện nhân! Hãy tiến đến gần đức Thế Tôn. Hãy tiếp nhận đại nguyện thù thắng. Ngài sẽ làm lắng dịu các uẩn khổ đau của chúng sinh trong thế giới đầy phiền não, sẽ làm lắng dịu bằng nước trí tuệ.”
Toàn thể hội chúng khi ấy, chắp tay, hướng về và đồng thanh nói: “Lành thay, lành thay, thưa bậc thiện nhân! Bậc trí giả thù thắng, xin vì lợi ích của chúng tôi mà thực hiện đại nguyện kiên cố, chúng tôi xin lắng nghe nguyện Tỉnh Thức thù thắng của Ngài.
Vị quan tư tế tối cao liền tiến đến, và khi đã đặt đầu gối phải xuống trước đức Thế Tôn, thì ngay lúc ấy toàn thể 3.000 đại thiên thế giới trong cùng cõi Phật này đều rung động, chấn động, lay chuyển, dao động mạnh, rung chuyển dữ dội; các loại nhạc khí không hề được đánh mà tự vang lên. Các loài thú và chim đều cất tiếng êm dịu và trong trẻo, cây cối đồng thời buông rải hoa.
Tất cả những ai trong cõi 3.000 đại thiên thế giới, nương vào đất mà an trú, dù đã phát tâm cầu Tỉnh Thức hay chưa, ngoại trừ các chúng sinh ở địa ngục và loài ngạ quỷ cõi yāma, đều trở thành người có tâm lành, tâm thiện, tâm không oán, tâm không nhiễm ô, tâm từ và tâm ngạc nhiên cảm phục.
Những chúng sinh ở cõi trời, vẫn ở trên không trung, với tâm cực kỳ hoan hỷ, mang hoa, tràng hoa, hương, nhạc khí, lọng báu, cờ, phướn và y phục, vải quý, cùng phát ra âm thanh êm dịu và khả ái để chuẩn bị lắng nghe đại nguyện của vị Bà-la-môn và thực hiện việc cúng dường. Và cho đến chư thiên nơi cõi trời akaniṣṭha cũng giáng xuống cõi Diêm Phù Đề, đứng trên hư không, với hương trời và y phục quý, chuẩn bị để lắng nghe đại nguyện của vị Bà-la-môn và thực hiện việc cúng dường.
Vị Bà-la-môn chắp tay, dùng những bài kệ sau đây để tán thán đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai:
Ngài vui chơi một cách tự chủ,
Trong thiền định giống như Phạm thiên,
Thân hình Ngài chiếu sáng rực rỡ,
Như Chúa trời Thiên Đế Śakra.
Ngài ban phát tài sản của cải,
Với lúa gạo như một vị vua,
Ngài là ngọc tôn quý tối thượng,
Ngài Bậc Thánh Tĩnh Lặng Tối Thắng.
Ngài ngọn núi hiền hoà tôn quý,
Ngài gầm vang tiếng rống sư tử,
Ngài hoàn toàn không có rung động,
Chắc kiên cố như núi meru,
Ngài hoàn toàn không bị khuấy động,
Giống như vua của biển cả lớn,
Ngài dung chứa không chỉ công đức,
Mà chấp nhận kể cả lỗi lầm,
Như đại dương nước biển rộng lớn.
Ngài cuốn trôi, rửa sạch tất cả,
Mọi cấu uế ô nhiễm như nước,
Ngài thiêu rụi rừng rậm phiền não,
Bằng ngọn lửa bậc Thánh Tĩnh Lặng.
Ngài không bị vướng mắc như gió,
Ngài là bậc chỉ bày chân lý,
Bậc hướng dẫn như một vị trời.
Ngài mưa Pháp tĩnh lặng bậc Thánh,
Như rồng thần tuôn rưới cơn mưa,
Làm mát lành khắp cả thế gian.
Ngài phá trừ các đạo tà khác,
Như sư tử chế phục muôn thú,
Ngài lan tỏa hương thơm công đức,
Như đoá tươi hoa nở thơm ngát.
Ngài nói lời thuyết giảng ngọt ngào,
Như giọng nói thanh tịnh Phạm thiên,
Ngài là là bậc y vương vô thượng,
Giải thoát khổ đau cho thế gian.
Ngài chăm sóc với tâm bình đẳng,
Như người mẹ thương yêu các con,
Ngài luôn thương giúp đỡ thế gian,
Như bạn hiền thường xuyên bên cạnh.
Ngài bắn phá quân địch kiêu mạn,
Như kim cang kiên cố cứng chắc,
Ngài chặt đứt dây leo ái dục,
Như bậc Thánh tiêu diệt kẻ thù.
Ngài cứu vớt tất cả thế gian,
Qua sông sinh tử như chiếc thuyền,
Ngài đốt cháy cỏ khô vô minh,
Như bậc rồng Thánh nhân Tĩnh Lặng.
Ngài ban cho ánh sáng mát lành,
Như mặt trăng Thánh nhân Tĩnh Lặng,
Ngài làm nở hoa sen padmā,
Của loài người như gặp mặt trời.
Ngài làm cho trổ quả tối thượng,
Bốn Thánh Quả như cây ra trái,
Ngài được chúng Hiền Thánh vây quanh,
Như chim chúa Thánh nhân Tĩnh Lặng.
Ngài là Phật Toàn Giác Chiến Thắng,
Rộng mênh mông giống như biển cả,
Tâm bình đẳng đối với thế gian,
Như cỏ cây các loài bình đẳng.
Ngài quán chiếu pháp Tánh Rỗng Không,
Như giấc mộng, chẳng khác ảo ảnh,
Ngài thuận theo thế gian như nước.
Bậc Thánh Tĩnh Lặng đã thọ ký,
Thành Tỉnh Thức cho các chúng sinh,
Bậc mang đủ tướng tốt thù thắng,
Ngài đầy đủ lòng thiện từ bi.
Bởi nơi Ngài, vô lượng chúng sinh,
Đã được điều phục, thuần giáo hoá,
Xin Ngài hãy thọ ký cho cha,
Đạo giác ngộ Tỉnh Thức tối thượng.
Ngài là Bậc Tuệ Giác tối thắng,
Bậc Đại Tiên, ngời sáng chân thật,
Xin thọ ký cho cha Tỉnh Thức,
Chặt đứt mọi tư tưởng điên đảo.
Nguyện sẽ thành đức Phật Toàn Giác,
Sẽ ở trong thời kỳ đen tối,
Là thời kỳ không có chánh pháp,
Sẽ dập tắt khổ nạn thế gian,
Đặt tất cả một trăm phần trăm,
Chúng sinh vào con đường an tĩnh.
Này thiện nam, khi vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, vị đại thần tư tế tối cao, đã tán thán đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng những bài kệ và đứng sang một bên, thì ngay lúc đó toàn thể hội chúng gồm chư thiên, Càn-thát-bà và loài người đều cất tiếng tán thán “lành thay”.
Vị đại thần tư tế tối cao thưa rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, do cha đã khiến cho vô số hàng tỷ chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và những vị ấy đã tiếp nhận các cõi Phật trang nghiêm cao quý. Họ là những chúng sinh có tâm ý hoàn toàn thanh tịnh, đã dứt bỏ sự ngăn che căn lành, được điều phục khéo léo, và là đối tượng có thể giáo hóa mà cha đã nhiếp thọ.
Và đây là 4.000 vị tụng đọc kinh điển veda, dẫn đầu là bởi Bồ Tát Jyotipāla, những vị đã được đức Như Lai thọ ký sẽ thành Phật trong đại kiếp Hiền Thiện. Các bậc thiện nhân ấy dùng ba thừa để giáo hóa những chúng sinh còn lối sống theo tham, sân, si và kiêu mạn.
Tuy nhiên, vẫn còn có những hạng người không bị ràng buộc bởi các nhiễm ô của thời kỳ đen tối, không có chánh pháp, bị che lấp mạnh mẽ, nhưng lại bị buông bỏ mà trở thành kẻ tạo nghiệp Vô gián, chống đối chánh pháp, phỉ báng bậc Thánh, chấp chặt tà kiến, không có bảy báu của bậc Thánh, không biết ơn mẹ, không biết ơn cha, không thuộc hàng sa-môn thanh tịnh, không thuộc hàng Bà-la-môn, làm những việc bất thiện, tạo nghiệp ác, không thấy sợ hãi đời sau, hiểu sai về chân lý, là kẻ không nơi nương tựa, và không ở trong ba lối sống thiện về thân, lời nói và ý nghĩ.
Cũng vậy, có những chúng sinh tuy được trang nghiêm bằng mọi sự giàu sang, phước đức của chư thiên và loài người, nhưng lại hành theo ba lối sống ác về thân, lời nói, và ý nghĩ, xa lìa 10 con đường thiện nghiệp. Họ bị tất cả thiện tri thức bỏ rơi và bị các bậc trí gạt bỏ, trôi lăn trong vòng xoáy sinh tử, chìm đắm trong dòng sông mặn độc hại, bị sa lầy trong bùn lầy luân hồi sinh tử và bóng tối si mê, hoàn toàn mất mọi hành động thiện lành. Tất cả những kẻ ấy bị bỏ rơi trong các cõi không có Phật, không có chánh niệm thiện căn, bị phá hoại trên con đường chân chánh và rơi vào hoạn nạn lớn. Vào thời ấy, trong cõi Phật ở thế giới Ta Bà, ở đại kiếp Hiền Thiện, sẽ có những người sinh ra làm người chỉ sống thọ 10 năm. Tất cả những kẻ này đều bị các bậc thiện nhân và bậc trí buông bỏ. Vào thời ấy, những chúng sinh đang bị cuốn trong bánh xe luân hồi sinh tử, không nơi che chở, không chỗ nương tựa, không có nơi quay về, trở thành kẻ gánh chịu khổ đau.
Còn những ai đã vượt qua khỏi tình trạng ấy, họ đều sẽ tiếp nhận các cõi Phật riêng của mình, những cõi thù thắng bậc nhất, và cũng chỉ thu nhận những chúng sinh được khéo giáo hóa, có tâm ý thanh tịnh, gốc lành không bị cắt đứt, đã khởi tinh tấn, và đã được gieo trồng công đức với nhiều đức Phật. Những chúng sinh như thế, có thể hóa độ đều đã được thu nhận. Có phải như vậy không, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn?
Đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đáp rằng:
Đúng vậy, thưa cha Bà-la-môn, những chúng sinh ấy phát nguyện và nhiếp thọ các trang nghiêm công đức cõi Phật, và ngay tại nơi ấy Như Lai đã thọ ký cho họ.
Vị Bà-la-môn nói rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, tâm cha rung động như chiếc lá hoa cây kiṃśuka (loài cây Butea monosperma, tên gọi khác là cây palāśa, lá hoa của cây kiṃśuka màu đỏ rực, thường được dùng để biểu trưng cho sự rực cháy, phù du, được ví với tham ái hoặc ngọn lửa dục vọng trong luân hồi sinh tử), tâm trí vô cùng bi thương, toàn thân cha đều mỏi mệt. Nếu những chúng sinh vốn là đối tượng của lòng bi mẫn bị các vị Bồ Tát vào thời ấy buông bỏ, rồi bị ném vào bóng tối của thời đại Đại kiếp giảm, trong thời kỳ đen tối, hoàn toàn không có chánh pháp, và hoàn toàn bị mọi người bỏ rơi.
Cha cũng vậy, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, trong tương lai, khi đã trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, còn lại 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, trong đại kiếp Hiền Thiện này, lúc nhân loại có tuổi thọ 100 năm, cha sẽ chờ đợi thời điểm ấy mà trong suốt thời gian dài vẫn không chán nản khi đang thực hành lối sống Bồ Tát. Cha sẽ kiên trì nhờ vào sức định của tâm, tiếp nhận những chúng sinh có căn cơ cần thời gian dài mới thuần phục, và khi thực hành sáu Ba-la-mật, cha sẽ nhiếp thọ những chúng sinh có thể giáo hóa.
Cha đã nghe từ nơi đức Thế Tôn rằng: “Trong sự xả bỏ các vật chất chính là Ba-la-mật Bờ Bên Kia của bố thí”. Do vậy, cha sẽ tu tập pháp Bố Thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia theo cách này: Trong vô lượng đời vị lai, bất cứ khi nào những chúng sinh đến xin, cha sẽ xả bỏ cho họ những vật như: thức ăn, nước uống, các loại thực phẩm, đồ uống món ăn mềm hay ngọt, y phục, giường nệm, tòa ngồi, chỗ ở, sự che chở, vòng hoa, hương liệu, dầu thơm, thuốc men chữa bệnh, tán lọng, cờ xí, của cải, lúa gạo, voi, ngựa, xe ngựa, vàng, bạc, vàng ròng, ngọc maṇi, trân châu, ngọc lưu ly, ốc trắng, đá quý, san hô đỏ, bạc thỏi, vàng miếng, vỏ ốc xoáy phải, và mọi thứ khác. Cha sẽ thực hiện sự xả bỏ như vậy với tâm đại bi và hoan hỷ tối thượng, không mong cầu quả báo, chỉ vì muốn làm cho chúng sinh được trưởng dưỡng nuôi lớn và để nhiếp thọ những chúng sinh có thể giáo hóa, mà tích tập kho tàng công đức của sự xả bỏ.
Và nếu lại có những chúng sinh đến cầu xin sự xả bỏ cao nhất, như là xả bỏ tôi tớ nam nữ, xóm làng, thành thị, vương quốc, vợ, con trai, con gái, bàn tay, bàn chân, tai, mũi, mắt, lưỡi, da, máu, xương, thân thể, mạng sống, hoặc đầu của chính mình, thì những sự xả bỏ như thế cha sẽ thực hiện với tâm cực kỳ hoan hỷ và đầy lòng bi mẫn, không mong cầu quả báo, chỉ vì lòng thương xót và muốn lợi ích cho những chúng sinh có thể giáo hóa.
Cha sẽ thực hành bố thí đưa đến Bờ Bên Kia theo cách chưa từng có trước đây với bất kỳ chúng sinh nào, tức là chưa từng có những sự xả bỏ như vậy, và cũng sẽ không bao giờ có bất kỳ vị Bồ Tát nào, khi tu hành để thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lại thực hiện sự xả bỏ như thế. Trải qua vô lượng vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ kiếp, trong mỗi đời sống, khi thực hành lối sống Bồ Tát để thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cha sẽ thực hành pháp bố thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia. Cha cũng sẽ đặt nền tảng và duy trì các phẩm chất dẫn dắt về lối sống xả bỏ cho những vị Bồ Tát ở thời kỳ mạt thế với đầy lòng Đại Bi.
Làm lắng dịu mọi phiền não chiến đấu, đó chính là Giữ giới Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia. Cũng như vậy, khi tu hạnh để thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cha sẽ thực hành lối sống giữ giới gồm nhiều loại giới luật, tu tập liên tục và thực hiện những lối sống khó làm, như đã nói ở trước.
Không bị dao động trước các ngoại cảnh, luôn quán xét tự thân, đó chính là Nhẫn nhục Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia. Cũng như vậy, cha sẽ tu dưỡng lối sống nhẫn nhục, như đã nói ở trước.
Xa lìa tất cả các pháp do tạo tác sinh diệt mà thành, siêng năng tu tập, đạt đến sự an tịnh của tất cả pháp không do tạo tác sinh diệt mà thành bằng lối sống tối thượng, và không thoái chuyển, đó chính là Tinh tấn Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia.
Quán Tánh Rỗng Không để đoạn trừ mọi sự điên đảo đối với tất cả các pháp do tạo tác sinh diệt mà thành, đó chính là Thiền định Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia.
Nhẫn pháp về chân lý bản tánh vốn không sinh khởi, đó chính là Tuệ Giác Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia.
Trong vô lượng vô số a-sam-khê hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ kiếp, hạnh tu với sức mạnh và tốc lực kiên cố như đã nói ở trước của cha, chưa từng có vị Bồ Tát nào, khi hành hạnh để thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thực hành Tuệ Giác Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia với sức mạnh và tốc lực như vậy, và cũng sẽ không bao giờ có vị Bồ Tát nào trong tương lai thực hành với sức mạnh và tốc lực như thế. Cha sẽ thực hành như vậy và sẽ đặt nền tảng các phẩm chất dẫn dắt cho những vị Bồ Tát ở thời kỳ đen tối, hoàn toàn không có chánh pháp, với đầy lòng Đại Bi.
Ngay từ lúc mới phát tâm, cha sẽ làm cho những vị Bồ Tát ở thời kỳ đen tối, hoàn toàn không có chánh pháp, không thoái mất tâm Đại Bi, cho đến khi nhờ Vô Thượng Đại Bát Niết Bàn mà các vị Bồ Tát ấy đạt được sự thành tựu kỳ diệu. Vì ý nghĩa ấy, cha sẽ thực hành hạnh xả bỏ mà không chấp trước nương vào giới, không chấp trước trong nhẫn nhục, không mong cầu trong tinh tấn, không trụ trước trong thiền định, và tu tập lối sống tính không hai trong huệ giác (prajñā).
Không mong cầu quả báo, mà tất cả chỉ vì lợi ích của những chúng sinh không có bảy thứ tài sản của bậc Thánh, bị bỏ rơi khỏi tất cả các cõi Phật thanh tịnh, là những kẻ tạo nghiệp vô gián, hủy bỏ Chánh pháp, phỉ báng bậc Thánh, chấp tà kiến, gặp nguy khốn do tập trung vào các gốc bất thiện, bị đẩy vào con đường sai lầm — cha sẽ thực hành các Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia với sức mạnh và tinh tấn mãnh liệt.
Vì lợi ích của từng mỗi một chúng sinh, để đặt nền tảng cho dòng giống hạt giống thiện lành, cha sẽ chịu đựng cảm thọ khổ đau trong địa ngục Vô gián suốt 10 đại kiếp. Cũng như vậy, cha sẽ chịu đựng khổ đau trong các cảnh giới súc sinh, ngạ quỷ, ngạ quỷ loại Dạ-xoa nghèo khổ, và loài người nghèo khổ.
Và cũng như cha sẽ gieo trồng hạt giống thiện lành vào dòng sinh mệnh của một chúng sinh, thì cũng vậy cha sẽ tiếp nhận tất cả những chúng sinh cần được hóa độ nhưng có dòng sinh mệnh giống như nắm tay rỗng không — tức là chẳng chứa đựng chút thiện lành nào.
Cho đến tận cùng một kiếp, cha sẽ không sống vô ích với những sự thọ hưởng lạc thú cõi trời. Trừ ra trường hợp chỉ còn một đời nữa ở cõi trời tuṣita mà thời gian không còn bao nhiêu, là đời cuối cùng để thành tựu Tỉnh Thức, thì trong suốt thời gian dài cha sẽ ở trong luân hồi, phụng sự cúng dường các đức Phật Thế Tôn nhiều như số hạt hạ lượng tử của các cõi Phật. Với mỗi đức Phật, cha sẽ thực hiện vô số sự cúng dường nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, và từ nơi mỗi đức Phật ấy cha sẽ đạt được các công đức nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật. Cũng vậy, cha sẽ đưa chúng sinh nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật vào con đường Tỉnh Thức.
Cũng như vậy, đối với những chúng sinh thuộc thừa Độc Giác Phật và những chúng sinh thuộc thừa Thanh Văn, cha sẽ dẫn dắt họ theo ý nguyện của từng người, khiến họ đạt được sự an lập trong Pháp.
Khi trong thế gian không có sự xuất hiện của Phật Toàn Giác, cha sẽ lấy hạnh của vị Tiên nhân Ẩn sĩ (ṛṣi-vratena) mà dẫn dắt chúng sinh vào 10 con đường thiện nghiệp, và cũng khiến họ an trụ trong các chánh định samādhi và các thần thông. Những người tôn thờ Đại Thiên Chúa Maheśvara vì mê lầm tà kiến, cha sẽ hiện thân Đại Thiên Chúa Maheśvara để dẫn họ vào thiện pháp. Những người tôn thờ thần Nārāyaṇa, tôn thờ Mặt Trăng và Mặt Trời, cho đến những người tôn thờ Phạm Thiên, cha sẽ hiện thân Phạm Thiên để dẫn họ vào thiện pháp.
Cũng như vậy, cha sẽ hiện thân chim Garuḍa để dẫn dắt họ vào các lối sống lành, cho đến khi cần cha sẽ hiện thân Thiên Đế Śakra.
Những chúng sinh đang đói khát, cha sẽ nuôi dưỡng họ bằng chính thịt và máu của mình. Những chúng sinh đang lâm nạn, cha sẽ cứu thoát họ bằng chính thân thể và sinh mạng của mình.
Trong khoảng thời gian dài như thế, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, vì lợi ích của những chúng sinh có dòng tâm thức bị cháy rụi, mất hết căn lành, cha sẽ thực hành lối sống Bồ Tát với sức mạnh dũng mãnh cao thượng. Trong khoảng thời gian dài như thế, cha sẽ ở trong luân hồi vì lợi ích và nhân duyên của chúng sinh, chịu đựng mọi khổ đau dữ dội, ghê gớm và khắc nghiệt.
Cho đến khi trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, và khi đã qua hết số kiếp ấy, cha lại trải qua gần hết a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, ở trong đại kiếp Hiền Thiện hai, lúc bấy giờ khi thanh niên Jyotipāla thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác sẽ là đức Như Lai hiệu Krakucchanda.
Vào lúc ấy, cha sẽ với con mắt tuệ giác prajñā của bậc Thánh thấy các đức Phật Thế Tôn đang trụ và vận hành bánh xe chánh pháp đã được khởi chuyển trong các thế giới nhiều như số hạt hạ lượng tử của 1.000 cõi Phật ở khắp mười phương.
Những chúng sinh, mà bởi cha, có dòng tâm thức bị cháy rụi, an lập trong căn bất thiện, không có bảy loại tài sản của bậc thánh, bị bỏ rơi ở tất cả các cõi Phật thanh tịnh, là những kẻ tạo tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp, hủy báng bậc Thánh, cho đến những kẻ bị phá hoại trên đường lành, đã rơi vào cảnh khốn cùng, thì chính cha sẽ là người khiến họ lần đầu tiên phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đặt họ vào và an lập họ trên con đường Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cha sẽ là người khiến cho những chúng sinh ấy lần đầu an lập trong bố thí ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia (dāna-pāramitā), cho đến khi đặt vào tuệ giác ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia (prajñā-pāramitā). Cha cũng sẽ gieo trồng hạt giống căn lành ấy của họ vào Vô thượng Niết-bàn, dẫn họ vào được trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối, giải thoát họ khỏi các đường ác, và hướng dẫn họ cách tích luỹ phước đức và tuệ giác prajñā. Khi họ đang an trụ và tu hành, thì ở các cõi Phật, họ sẽ được dẫn dắt đến chỗ các đức Phật Thế Tôn để rồi họ sẽ được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Họ sẽ đạt được chánh định samādhi, Năng lực trì giữ chân lý Dhāraṇī và nhẫn lực (kṣānti), và sẽ chứng nhập các tầng địa bậc. Cha sẽ khiến những chúng sinh ấy phát khởi đại nguyện tiếp nhận các trang nghiêm công đức của cõi Phật và sẽ dạy họ tu học.
Và họ sẽ tiếp nhận các trang nghiêm công đức của cõi Phật như thế. Vào thời ấy, cha sẽ là như thế, khi đã bước vào đại kiếp Hiền Thiện, lúc đức Thế Tôn Krakucchanda, mặt trời trong hàng Như Lai xuất hiện, và các đức Phật Thế Tôn đang trụ và giáo hóa, thuyết pháp cho chúng sinh trong những cõi Phật nhiều như số hạt hạ lượng của 1.000 cõi Phật khắp mười phương.
Bấy giờ, cha sẽ đến gần đức Thế Tôn Krakucchanda Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác — vừa mới thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau khi đến gần, cha sẽ thực hiện nhiều hình thức cúng dường, thưa hỏi, xuất gia, tinh tấn tu tập giữ giới, đa văn, chánh định samādhi, và trở thành vị thuyết pháp tối cao.
Vào thời ấy, những chúng sinh có dòng tâm thức bị cháy rụi, an lập trong căn bất thiện, đã bước vào con đường tà kiến, tạo tội vô gián, bị phá hoại trên đường lành, đã rơi vào cảnh khốn cùng — cha sẽ thuyết pháp cho họ, và sẽ tiếp nhận họ làm những chúng sinh đáng giáo hóa.
Khi mặt trời Như Lai đã lặn, bấy giờ cha sẽ không cần dụng công mà vẫn làm Phật sự, và trong khi dân chúng có tuổi thọ 100 năm, cha sẽ khiến họ an lập vào ba loại công đức.
Khi thời ấy đã qua, cha sẽ đi đến cõi trời để thuyết pháp cho chư thiên, và tiếp nhận những chúng sinh đáng giáo hóa. Khi tuổi thọ của chúng sinh chỉ còn 2.000 năm, chúng sinh ấy sẽ trở nên kiêu mạn, do quyền thế, do dòng tộc, do sắc đẹp, và sẽ đầy sự ganh tỵ.
Những chúng sinh bị bao trùm bởi bóng tối của năm thứ cấu uế sẽ trở nên đầy tham mãnh liệt, sân mãnh liệt, si mãnh liệt, kiêu mạn mãnh liệt và ganh ghét, đố kỵ mãnh liệt. Họ bị nhiễm bởi dục vọng đối với phi pháp và tìm cầu sự hưởng thụ phi pháp. Họ có tà kiến, thấy biết sai lầm, không có bảy thứ tài sản của bậc thánh, không biết ơn mẹ, không biết ơn cha, không phải sa-môn, không phải bà-la-môn, làm những việc không nên làm, tạo điều không có phước đức, thấy sợ hãi đời sau, không tinh thông về ba loại phước đức, không ham thích, không thành thạo về ba thừa, thành thạo trong ba điều ác nhưng không thành thạo trong ba điều thiện, thành thạo trong 10 con đường ác, bị tổn hại bởi bốn điên đảo, sống theo bốn điều thất bại, bị chi phối bởi bốn ma, bị cuốn trôi bởi bốn dòng lũ, và chịu sự khống chế của năm triền cái.
Họ sẽ trở nên kiêu mạn vì sáu căn giác quan, theo đuổi tám loại tà kiến, rơi vào cảnh khốn khổ vì dục lạc, khơi dậy các tùy miên, không ưa thích thiện pháp, và do phước báo cõi trời và loài người mà sinh tà kiến. Họ bị phá hoại trên đường lành, tạo tội vô gián, phỉ báng chánh pháp, hủy báng bậc Thánh, mất hết căn lành, lời lẽ ác độc, vô ơn, trí nhớ hẹp hòi, ghét bỏ thiện pháp, tuệ giác prajñā yếu kém, học vấn ít, giới hạnh xấu, gian xảo, đố kỵ, không trò chuyện với nhau, khinh thường lẫn nhau, biếng nhác, căn không đầy đủ, yếu đuối, không có y phục, kết giao bạn ác, mất ký ức từ khi còn trong thai, bị nhiều bệnh tật, phiền não, sắc diện xấu, không biết hổ thẹn, sợ hãi lẫn nhau. Họ dùng một phần cơm thừa để bố thí nhưng thân, lời nói và ý nghĩ đều tạo tác các hành vi bất thiện. Những chúng sinh ấy sẽ tán thán tà kiến thường còn.
Vào thời ấy, sẽ có những chúng sinh có tâm chấp trước vào năm uẩn, tâm tham đắm vào năm dục, tâm xấu ác, tâm não hại, tâm oán thù, tâm bạo hại, tâm ô uế, tâm thô bạo, tâm dao động, tâm không điều phục, tâm bất thiện, tâm kiêu mạn, tâm chấp vào phi pháp, tâm không ổn định, tâm khởi tranh chấp, tâm muốn giết hại lẫn nhau, tâm xa lìa chánh pháp, tâm chưa thành thục, tâm ganh đua trong pháp, tâm khởi bất thiện, tâm không mong cầu Niết-bàn tịch tĩnh, trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối, tâm không đáng thọ cúng dường, tâm bị trói buộc bởi tất cả kiết sử, tâm bị chi phối bởi nhận thức về bệnh, già và chết, tâm đặt nền tảng trên mọi kiết sử, tâm nắm giữ mọi triền cái, tâm muốn lật đổ cờ chánh pháp, tâm giương cao cờ tà kiến, tâm bêu xấu nhau, tâm ăn nuốt lẫn nhau, tâm áp bức nhau để mưu cầu thế lực, tâm chất chứa sân hận, tâm đánh hại nhau, tâm không bao giờ thỏa mãn với dục, tâm ganh ghét mọi sự sở hữu, tâm vô ơn, tâm muốn chiếm đoạt vợ người, tâm muốn hại và giết, và tâm không khởi nguyện lành.
Và ở đây, họ nghe những âm thanh từ gần nhau: tiếng kêu của địa ngục, tiếng của loài súc sinh, tiếng của cõi Diêm-ma, tiếng của bệnh tật, tiếng của già, tiếng của chết, tiếng của sự giết hại, tiếng của sự mất cơ hội, tiếng của kẻ thù thường hằng, tiếng của gông cùm xiềng xích, tiếng của roi vọt tra tấn, tiếng la mắng và sỉ nhục, tiếng chém lìa khớp, tiếng chém lìa đoàn nhóm, tiếng trộm cắp, tiếng chiến xa của địch, tiếng đói kém, tiếng tà dâm, tiếng nói dối, tiếng tai họa, tiếng nói đâm thọc, tiếng thô ác, tiếng lời nói rối loạn, tiếng ganh ghét đố kỵ, tiếng cố chấp bám giữ, tiếng ngã mạn và chấp ngã, tiếng ưa và ghét, tiếng việc vừa ý hay không vừa ý, tiếng ly biệt người mình thương, tiếng mua bán, tiếng hành hạ nô lệ, tiếng ở trong bào thai, tiếng hôi hám, tiếng lạnh buốt, tiếng nóng bức, tiếng đói khát, tiếng mệt mỏi đau đớn, tiếng lao tác đồng áng, tiếng mệt mỏi vì nhiều nghề thủ công, tiếng khổ vì nhiều bệnh tật. Và những chúng sinh ấy nghe tất cả những tiếng này từ gần nhau. Những chúng sinh như thế — thiếu căn lành, xa lìa thiện hữu tri thức, và có tâm ác — sẽ làm cho toàn bộ thế giới thời đó bị tràn ngập những tiếng như vậy.
Những chúng sinh ấy sẽ bị bỏ rơi bởi tất cả các Bậc Toàn Tri, và bị xa lìa khỏi các cõi Phật. Họ sẽ sống không có thức ăn uống thanh tịnh, không có sự điều phục và khắc chế, chuyên làm các nghiệp ác, tập trung vào điều bất thiện, và không thực hành Thánh đạo Tám ngành. Họ đắm chìm trong bóng tối dày đặc, do nhân duyên của ác nghiệp sâu nặng. Vào thời ấy trong đại kiếp Hiền Thiện, khi thọ mạng loài người chỉ còn 2.000 năm, và họ sẽ tái sinh như vậy.
Do nghiệp duyên của những chúng sinh ấy, cõi Phật đó sẽ trở nên hạ liệt, bị xâm chiếm bởi tất cả những chúng sinh đã dứt sạch căn lành. Trái đất sẽ mặn chát, đất đai sẽ đầy đá sỏi, cát sạn, đá phiến và gồ ghề núi non. Mặt đất sẽ bị đầy dẫy các loài muỗi mòng độc, rắn độc, thú dữ và chim ác. Gió sẽ thổi không khí ô nhiễm, và sẽ có những thời tiết bất thường. Mưa đá sẽ rơi, lẫn lộn với vị mặn và vị nhạt chua chát vào những thời tiết trái mùa.
Như vậy, trên mặt đất, các loại cỏ, dược thảo, cây cối, lá, hoa, trái, lúa thóc và vị của chúng — tức là thức ăn, nước uống và mọi vật thực — sẽ trở nên bất thường, ô nhiễm, thô ráp, cứng khô và lẫn độc tố.
Những chúng sinh ấy sẽ vì ăn uống với số lượng nhiều mà trở nên thô bạo, xấu ác, hung tợn, dữ dằn, cộc cằn, keo kiệt, hay mắng nhiếc, không tôn trọng nhau, tâm sợ hãi, tâm đánh hại và tâm giết hại. Họ sẽ ăn thịt và uống máu, mặc da thú, sống dựa vào vũ khí và chuyên giết hại sinh mạng. Họ sẽ kiêu ngạo vì hình sắc, dòng tộc, gia thế, của cải, kiến thức sách vở, cưỡi ngựa, sử dụng cung tên và các loại binh khí. Trong thế gian, sẽ có những kẻ dấn thân vào các hạnh khổ hạnh sai lầm và luyện chế nhiều loại kim loại.
Khi ấy, cha từ cung trời tuṣita giáng hạ, vào trong bụng của chánh cung hoàng hậu thuộc dòng vua là bậc Chuyển Luân Thánh Vương thù thắng, để thọ nhập thai nhằm làm thuần thục căn lành của chúng sinh đáng được hóa độ.
Trong thời điểm ấy, khắp tất cả cõi Phật này, cha tỏa sáng rực rỡ bằng ánh sáng vi diệu, từ trên đến tận cung trời akaniṣṭha và từ dưới đến tận vòng bánh xe vàng (vòng vàng xung quanh lõi trái đất), đều tỏa sáng rực rỡ. Và những chúng sinh trong cõi Phật này lúc bấy giờ, dù đang thọ sinh trong địa ngục, loài súc sinh, cõi Diêm Ma, hoặc trong cõi trời hay loài người, tất cả đều thấy, chạm đến và nhận biết ánh sáng ấy.
Khi ấy, những chúng sinh đang suy tư về vòng sinh tử, đang bị trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, bị khổ não làm lo âu, cha khiến họ khởi tâm mong cầu Niết-bàn, an trụ trong trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối, và an tĩnh dứt trừ phiền não. Đó chính là hạt giống của đạo lộ tối thượng đầu tiên mà cha gieo trồng.
Khi cha với tâm an định ở trong bụng mẹ suốt mười tháng, thông suốt tất cả các pháp, chỉ bày tất cả các chánh định samādhi, hướng về một pháp và chỉ bày sự diệt tận ý niệm tối hậu.
Cho đến khi cha thành một đức Phật Toàn Giác, sẽ giải thoát cho những chúng sinh mệt mỏi trong vòng sinh tử, sẽ giúp những chúng sinh thoát khỏi trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng. Những chúng sinh ấy thấy cha khi ở trong bụng mẹ suốt mười tháng, với tâm an định, như thấy viên ngọc báu maṇi, ngồi trên tòa sư tử.
Khi mười tháng đã trôi qua, nhờ tích tập tất cả công đức và do sức chánh định samādhi, cha sẽ làm rung chuyển toàn bộ cõi Phật này và đại địa với sáu loại chấn động. Từ trên đến cung trời akaniṣṭha và từ dưới đến vòng bánh xe vàng, cha đều làm rung động bằng sáu loại chấn động. Và những chúng sinh lúc bấy giờ trong cõi Phật này, dù sinh trong địa ngục hay cho đến cõi người, cha đều khiến họ tỉnh giác.
Khi Ta từ bên phải bụng mẹ sinh ra, lại một lần nữa, khắp tất cả cõi Phật này, Ta tỏa sáng rực rỡ bằng ánh sáng vi diệu. Bấy giờ, trong thời điểm ấy, Ta khiến tất cả chúng sinh trong cõi Phật này được khích lệ, thức tỉnh. Đối với những chúng sinh chưa từng đoạn mất căn lành, Ta gieo vào trong dòng tâm thức họ hạt giống Niết-bàn, trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối.
Với những chúng sinh đã được gieo hạt giống Niết-bàn trong dòng liên tục, Ta sẽ gieo trồng mầm mống của chánh định samādhi. Khi Ta dùng bàn chân chạm đến đại địa mặt đất, thì khắp tất cả cõi Phật này trong thời điểm ấy, Ta làm rung chuyển, làm chấn động, làm rung rung đại địa với sáu loại chấn động, từ nơi này cho đến tận vòng bánh xe vàng.
Bấy giờ, trong thời điểm ấy, những chúng sinh nương nơi nước, nơi đất, nơi hầm hố, thuộc bốn loài sinh và năm đường, tất cả Ta đều khiến họ tỉnh ngộ. Với những chúng sinh trong dòng tâm thức chưa phát sinh mầm chánh định samādhi, Ta khiến phát sinh và gieo trồng; còn những mầm chánh định samādhi đã kiên cố, Ta khiến họ an trú nơi địa vị bất thoái trong ba thừa.
Ngay khi Ta mới sinh ra, khắp trong cõi Phật này, các vị Đại Phạm Thiên, Ma vương, Thiên Đế Śakra, thần Mặt Trăng, thần Mặt Trời, các vị Hộ Thế Thiên Vương, Đại Long Vương, vua A-tu-la, chư thiên hóa sinh, các vị có thần thông lớn, Dạ-xoa, La-sát, Rồng và A-tu-la đều đến để cúng dường Ta.
Ngay khi mới sinh ra, Ta sẽ bước đi bảy bước. Nhờ sức tích tập công đức và sức chánh định samādhi, Ta thuyết pháp, khiến khắp hội chúng đều đạt được lòng tin thanh tịnh nơi ba thừa. Những chúng sinh trong hội chúng ấy, nếu thuộc Thanh Văn thừa, thì đó sẽ là đời sống tái sinh cuối cùng của họ, là đối tượng được Ta hóa độ. Những chúng sinh ở đó, nếu thuộc thừa Độc Giác Phật, thì họ sẽ đạt được pháp nhẫn vi diệu như hoa của đức Phật Mặt Trời Toàn Giác Vairocana.
Những chúng sinh ở đó, nếu thuộc Vô Thượng Đại Thừa, thì tất cả sẽ đạt được chánh định samādhi tên là Biển Lớn Trì Giữ Kim Cang Bất Hoại khởi động (vajradhara-samudra). Và nhờ chánh định samādhi ấy, họ sẽ vượt qua tầng địa thứ ba.
Khi Ta muốn được tắm gội, những vị Đại Long Vương thù thắng ở đó sẽ tắm gội cho Ta. Những chúng sinh thấy Ta đang được tắm gội, tất cả sẽ đạt được công đức như thế trong ba thừa, đúng như đã được nói.
Những chúng sinh nào thấy Ta cưỡi trên xe, thấy rõ ràng các trò chơi của vương tử, các loại kỹ xảo, các nơi sinh hoạt, các nơi làm việc và các chỗ ngồi của Ta, thấy Ta là người xứng đáng để được giáo huấn trong cung nữ, tham dự năm dục lạc, và vào lúc nửa đêm với tâm xao động, Ta rời khỏi chỗ ấy, thấy việc Ta bỏ các đồ trang sức, thường xuyên mặc y đỏ và tìm kiếm y cà-sa, thấy Ta đi đến cội cây Tỉnh Thức, và những chúng sinh thấy Ta đang đi đến gần, thì đối với những chúng sinh ấy, nhờ tích tập tất cả công đức và bằng sức chánh định samādhi, Ta sẽ thuyết pháp như thế, khiến cho họ phát khởi chí nguyện mạnh mẽ đối với ba thừa.
Những chúng sinh ở đó thuộc thừa Độc Giác Phật, tất cả sẽ đạt được pháp nhẫn như hoa của đức Phật Mặt Trời Toàn Giác Vairocana.
Với những ai đã được gieo hạt giống Đại Thừa, tất cả sẽ đạt được hánh định samādhi tên là Biển Lớn Trì Giữ Kim Cang Bất Hoại khởi động. Và nhờ chánh định ấy, họ sẽ vượt qua tầng địa thứ ba.
Tự mình, Ta sẽ trải cỏ và chuẩn bị tòa Kim Cang dưới cội cây Tỉnh Thức. Ta sẽ ngồi xuống, kiết già, giữ thân ngay thẳng. Ta sẽ tu tập thiền định như thế, khiến hơi thở ra vào lắng dịu. Mỗi ngày một lần, Ta sẽ từ định mà đứng dậy, rồi thọ dụng một nửa quả nhỏ như hạt mè, còn nửa kia dâng lại cho người cúng dường.
Trong thời gian dài, Ta sẽ hành trì lối sống khó làm như thế, cho đến khi tất cả chư thiên trong cõi Phật này, từ cung trời akaniṣṭha trở xuống, đều đến cúng dường Ta và làm chứng cho hạnh khó làm của Ta.
Với những ai ở đó thuộc Thanh Văn thừa, đã gieo hạt giống, thì, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, cha sẽ hiện hữu trong dòng tâm thức họ để dứt trừ phiền não. đó sẽ là đời sống tái sinh cuối cùng của họ, là đối tượng được cha hóa độ.
Còn những ai thuộc thừa Độc Giác Phật, thì mọi việc sẽ đúng như đã nói trước.
Như vậy, các loài Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la, garuḍa, Kinnara, mahoraga, ngạ quỷ, quỷ piśāca, quỷ kumbhāṇḍa, cùng các vị tiên có năm loại thần thông đều đến để cúng dường Ta. Tất cả sẽ làm chứng cho lối sống khó làm của Ta.
Những ai thuộc Thanh Văn thừa, thì đó sẽ là đời sống tái sinh cuối cùng của họ, là đối tượng được Ta hóa độ.
Còn những ngoại đạo trong thế giới bốn châu thực hành lối sống khó làm bằng sự khổ hạnh nung nóng thân thể và các giới luật nghiêm khắc, thì các vị phi nhân sẽ báo cho họ rằng:
“Các ngươi không phải là những người hành lối sống khó làm. Ở nơi này có một vị Bồ Tát ở đời cuối cùng đang thực hành lối sống khó làm. Ngài tu tập thiền định như thế, buộc chặt sự chuyên chú trong tâm. Thân hành an tĩnh, khẩu hành an tĩnh, hơi thở ra vào cũng hoàn toàn lặng yên. Mỗi ngày, vào một thời, Ngài từ thiền định đứng dậy, thọ dụng một phần ăn nhỏ như nửa hạt mè. Lối sống khó làm này là đại thần thông, có quả lớn, và công đức rộng lớn. Chẳng bao lâu, vị ấy sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nếu các ngươi không tin, hãy đi và tự mình thấy.”
Và những người ấy, bỏ lối sống khổ hạnh kia, thấy lối sống khó làm của Ta, thì những ai có mầm hạt giống thừa Thanh Văn đã được an lập, thì đó sẽ là đời sống tái sinh cuối cùng của họ, là đối tượng được Ta hóa độ.
Những vị vua loài người, các trưởng giả, cư dân thành thị hay nông thôn, tại gia hay xuất gia, có đủ nhà cửa, họ cũng sẽ đến gần hạnh khó làm của Ta, và thì tất cả họ đều được an lập trong Thanh Văn thừa.
Bất cứ người nữ nào phải chịu nỗi khổ sinh đẻ nào gặp được Ta, thì đó sẽ là lần cuối cùng người nữ ấy phải thọ làm thân nữ.
Những loài thú và chim nào thấy Ta đang ngồi thực hành lối sống khó làm, thì đó sẽ là lần thọ sinh cuối cùng của họ trong loài súc sinh. Những loài thú và chim nào đã được gieo hạt giống của thừa Thanh Văn, thì nhờ đó họ chỉ còn bị ràng buộc trong một đời và sẽ trở thành đối tượng được Ta giáo hóa.
Những loài súc sinh nhỏ bé, các loài ngạ quỷ khi họ gặp Ta, thì đó sẽ là lần cuối cùng những chúng sinh đó còn thọ thân trong loài súc sinh hay loài ngạ quỷ.
Ta sẽ hành trì hạnh khó làm như thế trong thời gian lâu dài, chỉ với một tòa kiết già, cho đến khi nhiều trăm ngàn triệu tỷ chúng sinh làm chứng cho lối sống khó làm của ta, và đạt được sự kỳ diệu, và trong dòng tâm thức họ, Ta sẽ gieo trồng vô lượng vô số hạt giống giải thoát.
Ta sẽ hành trì lối sống khó làm như thế, như trước đây chưa từng có bất kỳ chúng sinh nào, dù là ngoại đạo, Thanh Văn thừa, Độc Giác Phật thừa hay Đại thừa Vô Thượng, đã từng hành trì hạnh khó làm như vậy. Và cũng không bao giờ về sau có chúng sinh nào, dù là ngoại đạo, có thể thực hành lối sống khó làm như cách mà Ta đang hành trì.
Khi chưa đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lúc ấy cha sẽ thực hiện sự nỗ lực tinh tấn, đánh bại ma vương cùng toàn bộ đạo binh của chúng, chuyển hóa những quả báo nghiệp còn sót lại, hàng phục ma phiền não, và chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Sau đó, cha sẽ an lập quả vị A-la-hán trong dòng tâm thức của một chúng sinh, cũng như vậy đối với người thứ hai, người thứ ba, và người thứ tư, Ta sẽ thuyết pháp và an lập quả vị A-la-hán trong dòng tâm thức của họ.
Vì lợi ích của từng mỗi chúng sinh, cha sẽ thị hiện các thần biến hàng trăm nghìn lần, và an lập chánh kiến trong dòng tâm thức của họ, thuyết giảng hàng ngàn ý nghĩa pháp và văn cú, và tùy theo khả năng mà an lập họ vào quả vị.
Trong dòng tâm thức của chúng sinh, Ta sẽ phá vỡ núi phiền não bằng kim cang trí tuệ, và thuyết pháp theo sự an lập của ba thừa.
Vì lợi ích của một chúng sinh, cha sẽ đi bộ hàng trăm joyana, vì mục đích thuyết pháp và an lập họ vào chỗ vô úy, không còn sợ hãi.
Trong giáo pháp của Ta, việc xuất gia sẽ không bị ngăn cấm, kể cả đối với người yếu đuối, trí nhớ ít ỏi, tâm tán loạn, miệng nhanh nhảu và tự cao, tâm ô nhiễm, trí tuệ kém, tâm bị nhiều phiền não làm rối loạn, hoặc là dân làng quê, hoặc là những người phụ nữ đã sinh nở hay chưa sinh nở, trong giáo pháp của Ta vẫn được phép xuất gia và thọ giới Cụ túc. Và sẽ có bốn chúng là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cư sĩ nam, và Cư sĩ nữ. Giáo pháp của Ta sẽ có đông đảo người theo, có sự chứng kiến của chư thiên, của Dạ-xoa, Rồng thần, A-tu-la, và có sự hành trì Tám Chánh Đạo trong ngày trai giới, cho đến cả các loài súc sinh cũng sẽ sống đời phạm hạnh.
Và khi cha, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, đã đạt được Tỉnh Thức, nếu có những chúng sinh có tâm ác hại, tâm muốn giết hại đối với cha, tiếp cận bằng gươm đao, hoặc bằng lửa, hoặc bằng giáo mác, hoặc bằng nhiều loại vũ khí, mắng nhiếc, chửi rủa bằng những lời thô lỗ, cộc cằn, hoặc gieo rắc tiếng xấu khắp bốn phương tám hướng, hoặc đem thức ăn và đồ uống có hòa trộn chất độc, thì những chúng sinh như vậy, do quả báo nghiệp chưa hết, cha sẽ giữ vững tâm và chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Như khi cha đã đạt được Tỉnh Thức, các chúng sinh ấy từng dùng các phương tiện để giết hại, xuất phát từ oán thù, tiếp cận bằng lời nói thô ác, bằng nhiều loại vũ khí, hoặc thức ăn và đồ uống có hòa trộn chất độc, và làm cha chảy máu, thì cha sẽ dùng tâm đã được hun đúc bởi giữ giới, học rộng đa văn, chánh định samādhi và đại bi, bằng giọng nói trong trẻo như tiếng Phạm âm hoàn toàn thanh tịnh, vang dội như tiếng trống trời, thuyết giảng giáo pháp vi diệu như vậy, để khiến tâm họ được thanh tịnh và khuyến khích hướng về điều lành. Khiến cho các chúng sinh ấy sám hối nghiệp chướng, và trong lúc nguy cấp phát khởi tâm phòng hộ, để cho họ không còn nghiệp chướng ngăn ngại sự sinh lên cõi trời, quả giải thoát, tâm ly dục, hay sự đoạn tận lậu hoặc. Và đối với cha trong trường hợp này, quả báo nghiệp chưa hết cũng sẽ được tiêu trừ hoàn toàn.
Và khi cha, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, đã thành tựu Tỉnh Thức, bao nhiêu lỗ chân lông trên thân cha có, thì bấy nhiêu mỗi ngày cha sẽ tạo ra các thân tướng Phật, được trang nghiêm với 32 tướng tốt của bậc Đại nhân và 80 vẻ đẹp phụ. Những thân tướng Phật ấy cha sẽ phái đến các cõi Phật thanh tịnh, và cũng phái đến những cõi không có Phật, cũng phái đến các cõi Phật đang trong năm thứ cấu uế.
Nếu trong các cõi Phật ấy có những chúng sinh tạo nghiệp vô gián, bác bỏ Chánh pháp, phỉ báng các bậc Thánh, và tích tụ cho đến tất cả các căn chẳng lành; hoặc những chúng sinh đã khởi hành theo thừa Thanh Văn, theo thừa Độc Giác Phật, hoặc theo Đại thừa, nhưng tạo lỗi lầm trong việc tu học, sống buông lung, phạm vào trọng tội căn bản, khiến dòng tâm thức bị thiêu đốt, mất con đường lành, bị dẫn dắt vào rừng rậm sinh tử, đi lạc vào tà đạo, và rơi vào chốn hiểm nạn lớn, bị mắc kẹt trong trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng; thì đối với những chúng sinh như vậy, một thân tướng Phật có thể trong một ngày thuyết pháp cho hàng trăm ngàn triệu tỷ chúng sinh.
Những chúng sinh sùng kính Đại Thiên Chúa Maheśvara, thì cha sẽ thuyết pháp cho họ trong hình tướng Maheśvara.
Và trong cõi Phật này, họ sẽ tuyên dương công hạnh của cha, ở đó cha sẽ khuyến khích các chúng sinh phát nguyện. Những chúng sinh ấy, khi nghe công hạnh của cha, sẽ phát nguyện ngay trong cõi Phật của cha, và mong cầu được sinh về đó.
Nếu chừng nào vẫn còn có một chúng sinh đến giờ chết, và cha, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, không hiện diện trước mặt họ, không thuyết pháp và không khiến tâm họ được hoan hỷ, thì khi ấy cha sẽ không chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nếu những chúng sinh mà Ta đã giáo hoá, sau khi chết họ sinh vào các đường ác, và không được tái sinh làm thân người trong cõi Phật của Ta, thì tất cả giáo pháp của Ta sẽ đều mất mát, và Ta cũng đừng có được trí tuệ biện tài, và đừng để Ta có khả năng hoàn thành toàn bộ Phật sự.
Những chúng sinh sùng kính thần Nārāyaṇa, và nếu những chúng sinh ấy sau khi chết, bị rơi vào đường ác, thì xin Ta đừng có khả năng hoàn thành toàn bộ Phật sự.
Và khi cha đã thành tựu Tỉnh Thức, nếu trong tất cả các cõi Phật có những chúng sinh tạo nghiệp vô gián, cho đến những chúng sinh bị dẫn dắt lầm lạc vào đường tà đạo, rơi vào chốn hiểm nạn lớn, sau khi họ chết sẽ được sinh về cõi Phật của cha. Thì do nhân duyên ấy, những chúng sinh đó sẽ có thân sắc như màu bụi đất, mặt mày giống ngạ quỷ piśāca, trí nhớ kém cỏi, hôi hám, giới hạnh xấu ác, thọ mạng ngắn ngủi, bị nhiều loại bệnh tật quấy nhiễu và thiếu thốn mọi phương tiện trang bị cần thiết.
Vì lợi ích của những chúng sinh ấy, lúc bấy giờ trong toàn thể thế giới hành tinh sẽ hiện ra bốn châu thiên hạ. Và khắp bốn châu ấy, cha sẽ thị hiện từ cung trời saṃtuṣita giáng trần, nhập vào thai mẹ, rộng rãi thị hiện cảnh vui chơi thuở đồng tử, học hỏi các kỹ nghệ, thực hành khổ hạnh khó làm, chứng kiến sự già, bệnh, chết và con đường xuất gia, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe chánh pháp, cho đến khi thị hiện nhập Niết-bàn và phân chia xá lợi.
Khi đã thành tựu Tỉnh Thức, cha sẽ thuyết pháp chỉ bằng một câu nói.
Những chúng sinh thuộc Thanh Văn thừa sẽ hiểu lời pháp là thuộc tạng giáo pháp của Thanh Văn thừa.
Những chúng sinh đáng được hóa độ theo Độc Giác Phật thừa sẽ hiểu lời pháp là thuộc giáo pháp của Độc Giác Phật.
Những chúng sinh thuộc Vô Thượng Đại thừa sẽ hiểu lời pháp là thuộc giáo pháp của Vô Thượng Đại thừa.
Những chúng sinh thiếu hành trang công đức sẽ hiểu lời pháp là thuộc về bố thí (dāna).
Những chúng sinh thiếu phước đức nhưng ưa thích sự an vui cõi trời sẽ hiểu lời pháp là thuộc về giữ giới (śīla).
Những chúng sinh có tâm sợ hãi lẫn nhau, tâm nhiễm ô, tâm xấu ác, sẽ hiểu lời pháp là thuộc pháp thoại về tâm từ (maitryā).
Những kẻ sát sinh sẽ hiểu lời pháp đã giảng là thuộc về tâm bi (karuṇā). Những ai bị chi phối bởi tâm ganh ghét và tật đố, sẽ hiểu lời pháp là thuộc pháp thoại về tâm hoan hỷ (muditā).
Những chúng sinh có tâm say đắm vì kiêu mạn đối với các cảnh giới sắc và vô sắc, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là thuộc về pháp thoại về tâm xả (upekṣā).
Những chúng sinh có tâm say đắm vì kiêu mạn do tham dục, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trú trong trạng thái quán bất tịnh (aśubha).
Những chúng sinh thuộc Đại thừa nhưng tâm tán loạn và xao động đã khởi lên, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về chánh niệm hơi thở vào và hơi thở ra (ānāpāna-smṛti).
Những chúng sinh tuệ giác prajñā kém cỏi hoặc sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy ví dụ ngọn đèn (pradīpa) về duyên khởi (pratītya-samutpāda).
Những kẻ ít nghe, kém học, thiếu kiến thức, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trú trong trạng thái không để mất những gì đã nghe, đã học, giữ gìn các Năng lực trì giữ chân lý Dhāraṇī và tránh làm mất chúng (vipraṇāśa).
Những kẻ rơi vào cảnh hiểm nguy vì tà kiến sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trú trong trạng thái Tánh Rỗng Không (śūnyatā).
Những kẻ bị làm hại bởi tâm phân biệt, tâm bị phân chia thành nhiều nhân cách, trong một thân mà có nhiều cái biết, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trú trong trạng thái vô tướng (animitta).
Những kẻ bị tổn hại do tâm nguyện chưa thanh tịnh sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trú trong trạng thái vô nguyện (apraṇihita).
Những kẻ có tâm ý chưa thanh tịnh sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trú trong trạng thái tâm ý hoàn toàn thanh tịnh (pariśuddhāśaya).
Những kẻ bị tổn hại do hành vi tạp loạn sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trú trong trạng thái không để mất tâm Tỉnh Thức (bodhi-citta).
Những kẻ bị tổn hại bởi sự thực hành nhẫn nhục và nhiệt tâm ban đầu, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trú trong trạng thái tánh chân thật (akṛtrima).
Những kẻ bị tổn hại do ý hướng ban đầu và tâm mềm yếu, dễ tổn hại, chưa đủ sức kiên định, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trú trong trạng thái vô trụ (aniśrita), tức là không bám chấp, không trú vào bất cứ pháp nào.
Những kẻ có tâm phiền não sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về tâm tưởng tạo tác, do hư cấu tạo thành (kalpa-citta).
Những kẻ đánh mất tâm thiện (kuśala) sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy an trú trong trạng thái Mặt Trời Toàn Giác Vairocana sẵn có trong mỗi người.
Những kẻ dốc lòng làm nghiệp của ma sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trú trong trạng thái Tánh Rỗng Không (śūnyatā-vyāhāra).
Những kẻ đã khởi tâm giết hại người khác sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự an trú trong trạng thái thăng tiến, đưa từ thấp lên cao, thoát khỏi chỗ thấp hèn (abhyudgata-vyāhāra).
Những kẻ có tâm bị tổn hại bởi nhiều loại phiền não sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự an trú trong trạng thái không còn, vắng bặt (vigata-vyāhāra).
Những kẻ đã bước vào con đường hiểm trở, lệch lạc sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự an trú trong trạng thái xoay chuyển, quay trở lại chính mình (āvarta-vyāhāra).
Những kẻ có tâm tò mò, khát vọng muốn tìm hiểu Đại thừa, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trú sự khai mở chuyển hóa (vivarta-vyāhāra).
Những vị Bồ Tát buồn khổ vì luân hồi, chịu đựng trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự an trú hoan hỷ, niềm vui an lạc (rati-vyāhāra).
Những kẻ đã đạt được trí tuệ của các tầng địa lành (kuśala-bhūmi) sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự an trú không mê lầm (amūḍha-vyāhāra).
Những chúng sinh có căn lành, nhưng không hài lòng lẫn nhau với chính mình và người khác, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về việc an trú nghe pháp, học rộng và tích luỹ kiến thức (śruta).
Những kẻ có tâm không bình đẳng đối với nhau, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trú ánh sáng chiếu khắp không bị ngăn ngại (apratihata-raśmi-vyāhāra).
Những kẻ đã bước vào hành vi bất thiện, hiểm ác, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự triển khai hành nghiệp đúng đắn (kriyā-avatāraṇa-vyāhāra).
Những kẻ đã khởi tâm sợ hãi giữa hội chúng đông người, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về ngọn cờ sư tử, tức lòng dũng mãnh không sợ hãi (siṃha-ketu-vyāhāra).
Những kẻ có tâm bị khuất phục bởi bốn loại ma, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự anh dũng (śūra-vyāhāra).
Những chúng sinh ở nơi cõi Phật không được ánh sáng chiếu đến, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự trang nghiêm của ánh sáng chính mình (prabhā-vyūha-vyāhāra).
Những kẻ có tâm hoặc là xu hướng mềm mỏng yếu đuối buông xuôi, hoặc là chống đối, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về ngọn núi cao lớn, tượng trưng cho sự kiên cố bất động (śaila-uccaya-vyāhāra).
Những kẻ bị chấn động khi quán sát pháp Toàn Giác, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về ngọn cờ và vòng tay trang sức tối thượng, biểu tượng cho chiến thắng và trang nghiêm (dhvaja-agra-keyūra-vyāhāra).
Những kẻ thiếu vắng tuệ giác lớn mahā-prajñā, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự rơi của sao băng, chỉ tính vô thường và sự cảnh tỉnh đột ngột (ulkā-pāta-vyāhāra).
Những kẻ chìm vào bóng tối của si mê, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trú nơi ngọn đèn mặt trời, biểu tượng cho trí tuệ soi sáng (bhāskara-pradīpa-vyāhāra).
Những kẻ sử dụng lý luận sai lầm về sự hoại diệt, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về kho tàng công đức (guṇa-ākara-vyāhāra).
Những kẻ mong cầu cái ngã (ātma) ví như bọt nước, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy an trú nơi định nārāyaṇa (nārāyaṇa-vyāhāra).
Những kẻ có tâm trí khi thì dao động, khi thì bất động, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy an trú thuận theo bản chất cốt lõi, nương theo tinh yếu (sāra-anugata-vyāhāra).
Những kẻ chỉ luôn ngước nhìn lên trên, chờ đợi sự gia hộ, hoặc cúi đầu khẩn cầu Bề Trên quán sát thương xót chính mình, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về Trí Toàn Giác cao tột như ngọn cờ trên đỉnh núi Meru (meru-dhvaja-vyāhāra).
Những kẻ đã bỏ lời phát nguyện ban đầu trước kia, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy đầy tinh chất cốt lõi ý nghĩa (sāra-vati-vyāhāra).
Những kẻ đã mất thần thông, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về bước chân kim cang (vajra-pada-vyāhāra).
Những kẻ mong cầu đạo tràng Tỉnh Thức (bodhi-maṇḍa), sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về đàn tràng kim cang (vajra-maṇḍa-vyāhāra).
Những kẻ ghét bỏ tất cả các pháp, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy ví như kim cang (vajra-upama-vyāhāra).
Những kẻ không biết lối sống của chúng sinh, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về người có lối sống đầy đủ hạnh nguyện (cāritra-vati-vyāhāra).
Những kẻ không biết về cao và thấp của các căn giác quan, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về ngọn đèn tuệ giác prajñā (prajñā-pradīpa-vyāhāra).
Những kẻ không hiểu tiếng nói của nhau, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự thông đạt âm thanh (ruta-praveśa-vyāhāra).
Những kẻ chưa đạt được pháp thân, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự quán sát thân chân chính của chánh pháp (saddharma-kāya-vibhāvana-vyāhāra).
Những kẻ chưa từng thấy Như Lai, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự không chớp mắt — tức chuyên chú không xao lãng (animiṣa-vyāhāra).
Những kẻ bị che lấp bởi mọi sự nương tựa, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về an trus chốn vắng lặng (araṇya-vyāhāra).
Những kẻ mong cầu chuyển bánh xe chánh pháp, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về bánh xe thanh tịnh (cakra-vimala-vyāhāra).
Những kẻ bước vào tri thức không dựa trên nhân duyên, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy thuận theo lý duyên khởi của trí tuệ (vidyā-pratītya).
Những kẻ có kiến chấp thường hằng trong một cõi Phật, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự tích lũy việc làm thiện (sukṛta-vicaya).
Những kẻ có hạt giống chưa bị cắt đứt đối với các tướng và các vẻ đẹp phụ, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự trang nghiêm đầy đủ (alaṅkāravatī-vyāhāra).
Những kẻ không có khả năng phân biệt ngôn ngữ và âm thanh, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự diễn đạt lưu loát (nirhāravatī-vyāhāra).
Những kẻ mong cầu Trí Tuệ Toàn Tri (sarvajña-jñāna), sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự khai mở pháp giới (dharma-dhātu).
Những kẻ trong hiện tại đang phải chịu trạng thái xoay tròn trong vòng lặp luân hồi, bị chi phối bởi các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự kiên cố (dṛḍha-vyāhāra).
Những kẻ không biết pháp giới (dharma-dhātu), sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về thần thông (abhijñā-vyāhāra).
Những kẻ đã đánh mất tuệ giác prajñā, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự không thoái chuyển (acyuta-vyāhāra).
Những kẻ bị che khuất con đường Tỉnh Thức (mārga), sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự không biến đổi (avikāra-vyāhāra).
Những kẻ mong cầu chánh trí tuệ (samajñāna) ví như hư không, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự vô sở hữu (niṣkiñcana-vyāhāra).
Những kẻ đã hoàn toàn viên mãn các ba-la-mật Bờ Bên Kia (pāramitā), sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự an trụ hoàn toàn thanh tịnh (pariśuddha-pratiṣṭhā-vyāhāra).
Những kẻ chưa viên mãn các pháp nhiếp hóa (asaṃgraha-vastu), sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự nhiếp hóa khéo léo (susaṃgṛhīta-vyāhāra).
Những kẻ lạc mất hạnh sống trong phạm trú (brahma-vihāra), sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự thực hành duy thức đồng đều (samaprayoga-vyāhāra).
Những kẻ chưa viên mãn các ngọc quý thuộc chi phần hỗ trợ Tỉnh Thức (bodhi-pakṣa-ratna), sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự xuất ly cái chưa ổn định (avyavasthita-niryāṇa-vyāhāra).
Những kẻ có tri thức về lời hay ý đẹp nhưng đã đánh mất tâm mình, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về pháp ấn đại dương (sāgara-mudrā-vyāhāra).
Những kẻ có tâm hứng thú với nhẫn pháp không còn sinh khởi (anutpattika-dharma-kṣānti), sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự xác quyết kiên định, không còn nghi ngờ (niścita-vyāhāra).
Những kẻ đã nghe pháp, có kiến thức, học rộng biết nhiều nhưng đánh mất tâm chính mình, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự không đánh mất (asaṃpramoṣa-vyāhāra).
Những kẻ không hài lòng với lời hay ý đẹp của nhau, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự dứt bỏ bóng tối (vitimira-vyāhāra).
Những kẻ chưa đạt được lòng tin thanh tịnh đối với Tam Bảo (tri-ratna), sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự tăng trưởng công đức (puṇya-utsada-vyāhāra).
Những kẻ không hài lòng với sự rưới xuống các pháp môn, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về mây pháp (dharma-megha-vyāhāra).
Những kẻ có kiến chấp đoạn diệt Tam Bảo, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự trang nghiêm của ngọc quý (ratna-vyūha-vyāhāra).
Những kẻ bị trí tuệ dao động do bị nghiệp trói buộc, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy vô song, không gì sánh được (anupama-vyāhāra).
Những kẻ bị trói buộc bởi tất cả các kết sử, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về cửa rỗng không như hư không (gagana-mukha-vyāhāra).
Những kẻ có tâm không rời tất cả các pháp, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy được ấn chứng bởi trí tuệ (jñāna-mudrā-vyāhāra)
Những kẻ chưa viên mãn các công đức của Như Lai, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự tiếp xúc trực diện với tri thức thế gian (loka-vidyā).
Những kẻ đã tích lũy việc làm thiện từ các đức Phật thuở quá khứ và có đủ tư cách thọ nhận, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về những thần biến được xác quyết chắc chắn (viniścita).
Những kẻ chỉ nắm một cửa pháp, nhưng chưa được chỉ rõ cứu cánh tận cùng, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là bằng lời dạy hiển bày toàn bộ các nghĩa của tất cả các pháp (sarva-dharma-naya-vyāhāra).
Những kẻ chưa xác quyết tất cả các kinh điển (sarva-sutrānta), sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự bình đẳng của sự tự hiện hữu chánh pháp (dharma-svabhāva-vyāhāra).
Những kẻ bị thiếu sáu pháp hướng đến Bờ Bên Kia, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về hiển bày toàn bộ nghĩa của tất cả các pháp (sarva-dharma-naya-vyāhāra).
Những kẻ chưa thành thục trong tâm ý hướng đến giải thoát, sẽ hiểu lời pháp qua lời dạy hiển bày các thần thông tự tại biến hóa như trò chơi (vikriḍitābhijñā-vyāhāra).
Những kẻ đã quán xét việc thâm nhập vào các pháp bí mật của Như Lai, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy không cần ai khác dẫn dắt (apara-praṇeya-vyāhāra).
Những kẻ còn vụng về lối sống Bồ Tát (bodhisattva-caryā), sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự đạt được trí tuệ (jñāna).
Những kẻ ưa mong muốn được gặp gỡ, nhìn thấy bà con thân thuộc, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự tùy thuận khắp mọi nơi (sarvatra-anugata-vyāhāra).
Những kẻ chưa trọn vẹn lối sống Bồ Tát, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự quán đảnh (abhiṣeka-vyāhāra).
Những kẻ chưa hoàn toàn viên mãn 10 lực (daśa-bala) của Như Lai, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự không bị chèn ép, không bị hạ thấp, không bị nghiền nát (anavamarda-vyāhāra).
Những kẻ đã đạt được bốn sự vô úy (catur-vaiśāradyā), sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự không còn hiểm nạn (aparyādīnava-vyāhāra).
Những kẻ đã đạt được pháp Toàn Giác đặc biệt, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự sự vững chắc không thể lay động, không thể phá hoại (asaṃhārya-vyāhāra).
Những kẻ mà sự nghe và thấy của họ đều không uổng công, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về đại nguyện (praṇidhāna-vyāhāra).
Những người có sự nghe trong sáng, không nhiễm ô, để giác ngộ trực tiếp tất cả pháp Toàn Giác, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về biển thanh tịnh (vimala-samudra-vyāhāra).
Những kẻ còn sót trong trí toàn tri, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy sáng tỏ hoàn toàn (su-vibuddha-vyāhāra).
Những kẻ chưa đạt được tâm nguyện của tất cả các đức Như Lai trong việc thực hiện Phật sự, sẽ hiểu lời pháp đã giảng là qua lời dạy về sự an trụ vô hạn (aparyanta-niṣṭhā-vyāhāra).
Như các vị Bồ Tát không dối trá, không xảo quyệt, ngay thẳng, và thuộc chủng tánh ngay thẳng, đối với họ, cha sẽ an lập vào dòng tâm thức: 84.000 cửa pháp, 84.000 cửa chánh định samādhi, 75.000 cửa năng lực trì giữ chân lý Dhāraṇī.
Đối với vô lượng vô biên những vị đã khởi hành trên cỗ xe Đại Thừa, cha sẽ an lập những công đức này vào dòng tâm thức của họ chỉ qua một câu pháp. Nhờ đó, các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát, sẽ được trang bị đầy đủ giáp trụ lớn (mahā-saṃnāha).
Họ sẽ khởi lên những thệ nguyện thù thắng không thể nghĩ bàn, và được trang nghiêm bởi các công đức lành của sự Tỉnh Thức, trí tuệ (jñāna) và sự thấy (darśana) không thể nghĩ bàn.
Ví như: trang nghiêm thân bằng các tướng chính (lakṣaṇa) và tướng phụ (anuvyañjana).
Trang nghiêm lời nói để tùy theo ý muốn mà làm cho chúng sinh hoan hỷ bằng lời hay ý đẹp.
Trang nghiêm sự nghe pháp bằng lời dạy về chánh định samādhi.
Trang nghiêm niệm bằng việc không đánh mất năng lực trì giữ chân lý Dhāraṇī.
Trang nghiêm ý bằng niềm an lạc tĩnh lặng, nhờ biết rõ về các đường ác.
Trang nghiêm ý hướng bằng sự phát nguyện kiên cố.
Trang nghiêm sự thực hành duy thức bằng việc hoàn mãn lời phát nguyện.
Trang nghiêm thâm tâm bằng việc phát triển từ tầng địa này sang tầng địa khác.
Trang nghiêm bố thí bằng sự xả bỏ tất cả vật chất.
Trang nghiêm giới bằng sự nghe và học tập điều thiện, giữ gìn không mất và thanh tịnh.
Trang nghiêm nhẫn nhục bằng tâm không ngăn ngại đối với tất cả chúng sinh.
Trang nghiêm tinh tấn bằng Sự tích luỹ tất cả hành trang.
Trang nghiêm thiền định bằng thần thông vui chơi trong tất cả các loại nhập các tầng thiền và định (samāpatti).
Trang nghiêm tuệ giác prajñā bằng sự giác biết trọn vẹn về các tập khí phiền não (kleśa-vāsanā).
Trang nghiêm tâm từ bằng việc đi theo sự cứu giúp đối với tất cả chúng sinh.
Trang nghiêm tâm bi bằng sự an trụ trong việc không xả bỏ bất kỳ chúng sinh nào.
Trang nghiêm tâm hỷ bằng sự đạt được trạng thái không còn nghi hoặc đối với tất cả các pháp.
Trang nghiêm tâm xả bằng sự lìa hai cực của tôn vinh (un-nāma) và hạ nhục (ava-nāma).
Trang nghiêm thần thông bằng tất cả các loại thần thông vui chơi.
Trang nghiêm phước đức bằng sự đạt được kho báu hưởng dụng vô tận, cầm giữ trong tay.
Trang nghiêm trí tuệ (jñāna) bằng sự biết rõ tâm (citta) và lối sống thói quen (carita) của tất cả chúng sinh.
Trang nghiêm trí sáng suốt (buddhi) bằng việc làm cho tất cả chúng sinh giác ngộ các pháp thiện xảo.
Trang nghiêm ánh sáng bằng việc đạt được ánh sáng của con mắt tuệ giác prajñā.
Trang nghiêm trí nhận biết từng khía cạnh (pratisaṃvid) bằng sự đạt được bốn loại trí nhận biết, gồm: trí nhận biết từng khía cạnh về nghĩa (artha-pratisaṃvid), trí nhận biết từng khía cạnh về pháp (dharma-pratisaṃvid), trí nhận biết từng khía cạnh về từ ngữ (nirukti-pratisaṃvid), và trí nhận biết từng khía cạnh về phát hiện ứng đối (pratibhāna-pratisaṃvid).
Họ sẽ trang nghiêm bằng sự vô úy (vaiśāradyā), hàng phục tất cả ma và các giáo phái ngoại đạo (para-pravādin).
Trang nghiêm công đức bằng sự đạt được các công đức của Phật Toàn Giác.
Trang nghiêm pháp bằng việc thường xuyên thuyết pháp cho chúng sinh với trí ứng đối (pratibhāna) không chấp trước (asaṅga).
Trang nghiêm ánh sáng bằng việc đạt đến sự chiếu soi của tất cả các pháp Toàn Giác.
Trang nghiêm hào quang bằng việc đạt đến sự chiếu soi của tất cả cõi Phật (sarva-buddha-kṣetra).
Trang nghiêm bằng phép thần thông hiển thị hình ảnh (ādarśana-prātihārya), với sự thọ ký (vyākaraṇa) không hư hoại.
Trang nghiêm bằng phép thần thông giáo hóa (anuśāsanī-prātihārya), là những vị trao truyền giáo huấn một cách đúng như thật.
Trang nghiêm bằng thần thông biến hóa (ṛddhi-prātihārya), đã đạt được sự viên mãn tối thượng Bờ Bên Kia (parama-pāramitā) của bốn thần túc (catur-ṛddhi-pāda).
Trang nghiêm bằng oai lực gia trì (adhiṣṭhāna) của tất cả các Như Lai, đã thâm nhập vào các bí mật của Như Lai.
Trang nghiêm bằng quyền năng làm chủ tối thượng (aiśvarya), đã đạt được trí tuệ (jñāna) không lệ thuộc.
Trang nghiêm bằng sức mạnh nội tại tinh yếu của sự thực hành tất cả các thiện pháp, làm đúng như lời đã nói, không bị ai hạ bức ở bất cứ phương diện nào.
Đối với vô lượng vô số những chúng sinh đã phát tâm khởi hành trên cỗ xe Đại Thừa, ta sẽ
Khi ấy, các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát, sẽ đạt được trí tuệ không dựa vào người khác đối với tất cả các pháp (sarva-dharma apara-pratyaya-jñānaṃ). Và họ sẽ được thành tựu nhờ ánh sáng chiếu soi lớn của chánh pháp. Và họ sẽ nhanh chóng chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Những chúng sinh ấy, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, dù ở trong các thế giới khác, là những kẻ tạo nghiệp vô gián, hoặc phạm các tội căn bản với tội nặng kèm theo, hoặc đã bị thiêu đốt dòng tâm thức, hoặc thuộc về thừa Thanh Văn, hoặc thừa Độc Giác Phật, hoặc thừa Tối Thượng Đại Thừa, nhưng nhờ nguyện lực mà sẽ tái sinh vào cõi Phật của cha. Lúc bấy giờ, sẽ có những kẻ có tâm chuyên chú vào gốc bất thiện, thô bạo, ưa điều ác, dòng tâm thức tàn ác và cứng rắn, có trí tuệ sai lầm, và bị ràng buộc. Đối với những kẻ ấy, cha sẽ giảng dạy 84.000 pháp âm. Đối với những chúng sinh có tâm lười biếng, cha sẽ giảng dạy rộng rãi 84.000 nhóm pháp (dharma-skandha - pháp uẩn). Những chúng sinh ở đó thuộc về thừa Tối Thượng Đại Thừa, cha sẽ giảng rộng pháp của sáu Ba La Mật đưa đến Bờ Bên Kia. Cha sẽ giảng rộng Bố Thí Bờ Bên Kia (dāna-pāramitā) cho đến Tuệ Giác Bờ Bên Kia (prajñā-pāramitā).
Những chúng sinh ở đó thuộc về thừa Thanh Văn hoặc thừa Độc Giác Phật, có gốc thiện không bị đoạn mất, và mong muốn được gặp bậc Đạo Sư. Những kẻ ấy, cha sẽ an lập vào việc quy y ba ngôi báu. Sau đó, cha sẽ khuyến khích họ tu tập các pāramitā đưa đến Bờ Bên Kia.
Đối với những kẻ ưa làm hại, cha sẽ an lập họ vào việc tránh xa sát sinh.
Đối với những kẻ bị chi phối bởi lòng tham bất chính, cha sẽ an lập họ vào việc tránh xa trộm cắp.
Đối với những kẻ bị nhiễm bởi ái dục phi pháp, cha sẽ an lập họ vào việc tránh xa tà dâm.
Đối với những kẻ nói lời thô ác với nhau, cha sẽ an lập họ vào việc tránh xa nói dối.
Đối với những kẻ say mê sự cuồng loạn, ta sẽ an lập họ vào việc tránh xa rượu mạnh, rượu nấu, các loại chất kích thích khác, và mọi thứ gây mất chánh niệm.
Và đối với những chúng sinh mà có đủ cả năm lỗi lầm, ta sẽ an lập họ vào giới cư sĩ là tránh xa năm lỗi lầm ấy.
Những chúng sinh không ưa thích các pháp thiện lành, thì ta sẽ an lập họ vào tám chi giới (aṣṭāṅga-śīla) cả ngày lẫn đêm.
Những chúng sinh có tâm ưa thích nhưng chỉ với gốc thiện nhỏ bé, thì ta sẽ dẫn nhập họ vào pháp luật (dharma-vinaya) do cha giảng, và an lập vào hạnh xuất gia, 10 điều học, cùng đời sống phạm hạnh thanh bạch trong sạch.
Những chúng sinh mong cầu tìm kiếm các pháp thiện, thì cha sẽ khiến họ phát tâm đối với các pháp lành và an lập trọn vẹn trong đời sống phạm hạnh trong sạch thanh bạch.
Vì lợi ích của những chúng sinh như thế, tức là những kẻ tạo nghiệp vô gián hoặc có dòng tâm thức bị ràng buộc, cha sẽ giảng pháp bằng nhiều loại thần biến với các ý nghĩa, câu và âm thanh khác nhau. Cha sẽ chỉ dạy rằng các uẩn (skandha), giới (dhātu) và xứ (āyatana) là vô thường (anitya), khổ đau (duḥkha), vô ngã (anātma) và trống rỗng (śūnya).
Cha sẽ an lập họ trong điều thiện, an ổn, cát tường, tịch tĩnh, ở nơi thành phố vô úy là Niết-bàn, đặt họ vững chắc vào trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối. Như thế cha sẽ giảng pháp cho bốn chúng gồm tỳ kheo, tỳ kheo ni, nam cư sĩ và nữ cư sĩ.
Những ai ưa tranh luận thì cha sẽ giảng rõ luận pháp. Những kẻ không ưa thích các pháp thiện, thì cha sẽ chỉ dạy cho họ những công việc giúp lìa bỏ các duyên hỗn tạp (vaiyāvṛtya-karman).
Những ai ưa thích tự học, cha sẽ chỉ dạy về Tánh Rỗng Không (śūnyatā) một cách nhất hướng, và hướng đến thiền (dhyāna) và giải thoát (vimukti).
Vì lợi ích của từng mỗi một chúng sinh, cha sẽ đi đến hàng trăm ngàn yojana bằng bước chân. Cha sẽ không mệt mỏi mà thực hành nhiều loại phương tiện thiện xảo và thần biến với các nghĩa, câu và âm thanh khác nhau, cho đến khi an lập họ vào Niết-bàn, đặt họ vững chắc vào trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối.
Cho đến khi, nhờ sức của chánh định samādhi, cha sẽ buông bỏ một phần năm các tập hành sinh diệt duy trì mạng sống (āyuḥ-saṃskāra). Vào lúc đến thời nhập Niết-bàn, cha sẽ tự mình phân chia thân thể của mình thành phần nhỏ như hạt cải. Vì mục đích từ bi đối với chúng sinh, cha sẽ sau đó nhập Niết-bàn. Sau khi cha diệt độ, chánh pháp của cha sẽ tồn tại 1.000 năm. Rồi sau đó, trong 500 năm nữa, là thời kỳ tương tự chánh pháp (tượng pháp) sẽ tồn tại.
Những chúng sinh nào, sau khi cha đã nhập Niết-bàn, khởi tâm ham muốn làm lễ cúng dường đối với xá-lợi thân, bằng châu báu, cho đến âm nhạc, hoặc chí ít chỉ là một lần xưng danh hiệu của Phật, một lần đảnh lễ, một lần đi nhiễu quanh, một lần chắp tay, hoặc một đoá hoa để cúng dường, thì tất cả những người ấy sẽ trở thành bất thoái chuyển, tùy theo tâm nguyện mà đạt được ba thừa.
Những chúng sinh nào, trong giáo pháp của cha sau khi cha nhập Niết-bàn, chí ít cũng thọ trì một điều học (śikṣāpada), theo như đã dạy mà lãnh thọ và thực hành, cho đến tụng được bốn câu kệ, và giảng dạy cho người khác, hoặc những người nào chỉ cần nghe mà khiến tâm được thanh tịnh hoan hỷ, hoặc cúng dường vị pháp sư thuyết pháp bằng chí ít một đoá hoa hoặc một lần đảnh lễ, thì tất cả những người ấy sẽ trở thành bất thoái chuyển, tùy theo tâm nguyện mà thành tựu ba thừa.
Cho đến khi chánh pháp bị ẩn mất, ngọn đuốc chánh pháp bị dập tắt, và cờ chánh pháp bị ngã xuống, thì những chúng sinh ấy sẽ thọ sanh vào thân người trong thế giới của cha, từ tại hành tinh có sự sống với đầy đủ bốn châu thiên hạ và cho đến lõi tại bánh xe bằng vàng của hành tinh ấy.
Vào thời điểm khi ở thế giới Phật của cha có nạn khan hiếm châu báu, thì lúc ấy sẽ có một bảo vật tên là Ketumati - Ngọn Cờ Tuệ Mati Tỉnh Thức, làm bằng ngọc maṇi và lưu ly, chiếu sáng rực như lửa, trụ ở nơi đó. Và bảo vật ấy từ đó vươn lên cao cho đến khi trụ tại cung trời Akaniṣṭha, sẽ rải xuống các loại mưa hoa như: hoa Māndārava, hoa Mahā-māndārava, hoa Pārijātaka, hoa Mañjuṣaka, hoa Mahā-mañjuṣaka, hoa Roca, hoa Mahā-roca, hoa Mãn-nguyệt Pūrṇa-candra, hoa sen trắng tinh khiết trăm cánh, ngàn cánh, trăm ngàn cánh, ánh sáng chiếu khắp nơi, hương thơm toả khắp nơi, vẻ đẹp diệu kỳ, trái cây quý hiếm thường có, đẹp lòng cho người và thích ý cho mắt, ánh sáng rực rỡ, có sắc và vị của ánh sáng, vô lượng màu sắc, vô lượng mùi hương, và vô lượng ánh sáng.
Những trận mưa hoa như thế sẽ được rải xuống khắp nơi, và từ mưa hoa ấy sẽ phát ra nhiều loại âm thanh, như: âm thanh của Phật, âm thanh của Pháp, âm thanh của Tăng, âm thanh về giới cư sĩ, âm thanh về trai giới đầy đủ Tám Thánh Đạo, âm thanh về giới luật của 10 pháp xuất gia, âm thanh về bố thí, trì giới, âm thanh về sự viên mãn của thành tựu lối sống phạm hạnh hoàn toàn trong sạch và thanh bạch, âm thanh về hạnh giúp đỡ người khác, âm thanh về học tập, âm thanh về sự tinh tấn, âm thanh về chánh tư duy, âm thanh về quán bất tịnh, âm thanh về niệm hơi thở vô hơi thở ra (ānāpāna-smṛti), âm thanh về các cảnh giới định, như: định phi tưởng phi phi tưởng xứ (naivasaṃjñā-nāsaṃjñā-āyatana), định vô sở hữu xứ (ākiñcanya-āyatana), định thức vô biên xứ (vijñāna-ānantya-āyatana), định không vô biên xứ (ākāśa-ānantya-āyatana), định thắng xứ (abhibhavāyatana), định biến xứ (kṛtsnāyatana), âm thanh về thiền chỉ śamatha và thiền quán vipaśyanā, về Tánh Rỗng Không, vô nguyện, vô tướng, âm thanh về duyên khởi, âm thanh về toàn bộ tạng kinh Thanh Văn, âm thanh về toàn bộ tạng kinh Độc Giác Phật, và âm thanh về tất cả lời giảng của Đại Thừa và Sáu Ba La Mật đưa đến Bờ Bên Kia (ṣaṭ-pāramitā).
Khi những đoá hoa ấy sẽ rơi xuống rải khắp, tất cả các vị trời thuộc cõi Sắc sẽ nghe, và nhớ lại từng căn lành đã làm từ trước. Đối với tất cả các pháp thiện, các vị Đại Hữu Tình ấy không sinh tâm chán ghét, không sinh tâm nhàm tởm; từ đó, họ sẽ giáng sinh xuống thế gian, và tất cả họ, ở trong thế giới ấy, sẽ được an lập vào loài người, đi vào và an trú trong 10 nghiệp thiện.
Cũng vậy, tất cả các vị trời thuộc cõi Dục sẽ nghe, và tất cả tâm cùng tâm sở phụ thuộc bị ràng buộc bởi tham ái, bởi sự vui chơi và hỷ lạc, sẽ được giải thoát. Tất cả sẽ nhớ lại căn lành từ trước, rồi từ cõi trời giáng xuống. Tất cả họ, ở trong thế giới ấy, sẽ được an lập vào loài người, đi vào và an trú trong 10 nghiệp thiện.
Và từ những đoá hoa ấy, ở trên không trung sẽ hiện ra các loại châu báu đa dạng, như: bạc, vàng, quặng vàng, ngọc maṇi, ngọc trai, ngọc lưu ly, ốc trắng, đá quý, san hô đỏ, bạc nguyên chất, vàng ròng, đá quý, và ốc xoáy bên phải. Tất cả ở trong cõi Phật sẽ rải xuống trận mưa châu báu như thế. Và tất cả ở trong cõi Phật sẽ làm lắng dịu mọi sự tranh cãi, bất hòa, nạn đói, bệnh tật, giặc ngoại xâm, lời nói thô ác, sự khắc nghiệt và chất độc. Sự an lành, sức khỏe, không còn đấu tranh, không còn ràng buộc hay chiến tranh, và sự no đủ sẽ được an lập khắp nơi trong cõi Phật.
Những chúng sinh nào thấy, chạm, hoặc sử dụng các bảo vật ấy, thì tất cả sẽ trở thành bất thoái chuyển đối với ba thừa. Và rồi họ sẽ trụ lại trên bề mặt trái đất ấy, vững chắc cho đến tận lõi bánh xe vàng của trái đất.
Cũng vậy, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, vào thời kiếp có chiến tranh, thì những bảo vật bằng ngọc bích indranīla-maṇi sẽ được an lập, vươn lên cho đến tận cung trời Akaniṣṭha. Sau khi an trụ, chúng sẽ rải xuống các trận mưa hoa đa dạng, như: hoa Māndārava, hoa Mahā-māndārava, hoa Pāriyātra, cho đến các hoa có ánh sáng vô tận. Từ cơn mưa hoa ấy sẽ phát ra nhiều loại âm thanh tuyệt diệu, như: âm thanh của Phật, âm thanh của Pháp, âm thanh của Tăng, cho đến tất cả những âm thanh đã được nói ở trên. Rồi những xá-lợi thân của cha sẽ trụ lại bên dưới mặt đất cho đến tận lõi bánh xe vàng của trái đất ấy.
Cũng vậy, vào kiếp có nạn đói, khi ấy những xá-lợi của cha sẽ vọt lên cho đến tận cung trời Akaniṣṭha, và mưa hoa sẽ diễn ra như đã nói trước. Cho đến khi kiếp có dịch bệnh, cũng diễn ra như đã nói trước.
Trong đại kiếp Hiền Thiện đó, sau khi cha nhập Niết-bàn, những xá-lợi của cha sẽ thực hiện ba việc cần làm. Cha sẽ an lập vô số chúng sinh có thể được giáo hóa vào quả vị bất thoái đối với ba thừa.
Cũng vậy, trong đại kiếp với số lượng như số hạt hạ lượng tử của 5 cõi Phật, những xá-lợi của cha sẽ giáo hóa chúng sinh, và an lập họ vào quả vị bất thoái chuyển (avaivartika) đối với ba thừa.
Khi về sau, từ mười phương, trong vô lượng vô số các thế giới, vượt hơn cả số cát của 1.000 a-sam-khê sông Hằng, sẽ xuất hiện các đức Phật Thế Tôn. Những vị ấy, khi xưa đã từng được cha, lúc còn là Bồ Tát, thực hành hạnh nguyện hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đưa vào lần đầu tiên con đường này, và được an lập. Và họ cũng đã được cha an lập trong sáu Ba La Mật đưa đến Bờ Bên Kia, khiến họ khởi tâm và dẫn vào con đường ấy. Và khi cha đã thành tựu Tỉnh Thức, cha cũng sẽ khiến cho, đưa vào và an lập vô số chúng sinh vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Và những chúng sinh nào, ngay cả nhờ sự biến hóa của xá-lợi sau khi cha nhập Niết-bàn, mà phát khởi tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì về sau, từ mười phương, trong vô lượng vô số các thế giới, vượt hơn cả số cát của 1.000 a-sam-khê sông Hằng, các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ tuyên thuyết, tán thán và vang dội công hạnh, uy đức và sắc tướng của cha, như sau:
“Thuở lâu xa, đã có một đại kiếp tên là Bhadra - Hiền Thiện. Và trong đại kiếp Hiền Thiện ấy, khi đã bước vào kiếp thứ tư, có đức Như Lai hiệu là Jina-bhāskara - Bậc Mặt Trời Chiến Thắng. Chính nhờ Ngài mà chúng ta lần đầu tiên được đưa vào, dẫn dắt và an lập trong Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc ấy, chúng ta vốn là những người có dòng tâm đã bị thiêu đốt, chuyên chú vào điều bất thiện, tạo nghiệp vô gián, thậm chí có tà kiến. Chính nhờ Ngài, chúng ta được đưa vào, dẫn dắt và an lập trong sáu Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia.
Nhờ Ngài mà hiện nay chúng ta đều là bậc Toàn Tri sarvajñā, chuyển vận bánh xe chánh pháp đầy đủ mọi tướng, và khi hoàn tất một vòng bánh xe thuyết pháp, sẽ an lập vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chúng sinh ở cõi trời và trong quả giải thoát.”
Những chúng sinh nào mong cầu Tỉnh thức mà nghe sắc tướng, danh hiệu và tiếng tăm của cha nơi các đức Như Lai, thì họ sẽ hỏi các đức Như Lai ấy như sau:
“Vì mục đích gì mà đức Như Lai ấy, vào thời kỳ đó, trong thời kỳ đen tối, không có chánh pháp, vào thời kỳ kiếp loạn trược, đầy năm thứ cấu nhiễm, lại chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?”
Và các đức Như Lai ấy sẽ giảng nói cho các thiện gia nam tử và thiện gia nữ tử cầu Tỉnh thức về tâm phát khởi lần đầu tiên của cha, được thấm nhuần bởi Đại Bi, cùng với sự trang nghiêm các công đức của cõi Phật và sự tu tập duy thức cùng với đại nguyện của cha.
Những vị thiện nam tử và thiện nữ nhân cầu Tỉnh thức ấy sẽ trở nên cảm nhận được sự kỳ diệu, cũng sẽ có tâm tin hiểu, phát khởi chí hướng rộng lớn, và cũng sẽ khởi lên Đại Bi như thế đối với tất cả chúng sinh. Và họ sẽ lập nguyện như vậy. Trong thời kiếp loạn trược đầy năm cấu uế mạnh mẽ và phiền não cấu uế, ở các cõi Phật, họ sẽ có thể thâu nhận những chúng sinh có khả năng giáo hóa, từ những kẻ tạo nghiệp vô gián cho đến những kẻ chuyên tâm vào điều bất thiện.
Và các đức Phật Thế Tôn ấy sẽ thọ ký cho những thiện nam tử và thiện nữ nhân cầu Tỉnh thức, được thấm nhuần bởi Đại Bi ấy, bằng cách như vậy. Nhưng sẽ không thọ ký theo ý muốn của họ, nếu lời nguyện được lập trong thời kiếp trược đầy năm cấu uế mạnh mẽ.
Những đức Phật khác sẽ giảng nói một cách rộng rãi cho các thiện nam tử và thiện nữ nhân cầu Tỉnh thức ấy về những sự biến hóa của xá-lợi của cha và những sự tu tập duy thức quá khứ như sau:
Rằng: “Thuở quá khứ lâu xa đã có một vị Chiến Thắng hiệu là Sūrya - Mặt Trời. Sau khi nhập Niết-bàn, từ xá-lợi của Ngài, trong một thời gian dài như vậy, vì lợi ích của những chúng sinh đang chịu khổ, đã hiện ra những biến hóa và các loại thần biến như thế, rất đa dạng.
Nhờ những sự biến hóa của xá-lợi ấy, chúng ta lần đầu tiên được khuyến khích hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chúng ta, từ khi chuyên chú vào các căn lành và khởi tâm lần đầu tiên, đã thực hiện sự nỗ lực duy thức này trong các Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia.
Nhờ Ngài mà hiện nay chúng ta đều là bậc Toàn Tri sarvajñā, chuyển vận bánh xe chánh pháp đầy đủ mọi tướng, và khi hoàn tất một vòng bánh xe thuyết pháp, sẽ an lập vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chúng sinh ở cõi trời và trong quả giải thoát.”
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Samudra-reṇu - Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, vị quan tư tế tối cao, ở trước đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, giữa hội chúng gồm chư Thiên, Càn-thát-bà và loài người, đã lập 500 lời nguyện thấm nhuần Đại Bi.
Ông liền nói rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nếu nguyện vọng như vậy của cha được viên mãn, thì về sau, trong kiếp Hiền Thiện, khi năm thứ phiền não mạnh mẽ và cấu uế của đấu tranh đang thịnh hành ở thời kỳ đen tối không có chánh pháp, trong thế giới mù lòa không có bậc dẫn đường, không có bậc chuyển hóa, bị bóng tối của tà kiến bao phủ, cho đến các tội vô gián như đã nói trước, và nếu cha có khả năng thực hiện tất cả Phật sự như vậy, đúng như lời nguyện cha đã lập, cha không rời bỏ lời nguyện trong đạo quả Vô Thượng, cũng không hồi hướng căn lành ấy sang các cõi khác, thì, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, xin hãy quyết định như vậy.
Cha cũng không nguyện cầu bằng căn lành này để được quả vị thừa Độc Giác Phật, cũng không nguyện cầu quả vị thừa Thanh Văn, cũng không nguyện cầu ngôi vị quốc vương ở cõi trời hay thiên chúa cõi người, cũng không cầu quyền uy ở cõi trời hay cõi người, cũng không cầu hưởng thụ năm thứ dục lạc, cũng không cầu sinh lên cõi trời, cũng không cầu sinh vào loài Càn-thát-bà, A-tu-la, Dạ-xoa, La-sát, Rồng hay Kim Sí Điểu, và cũng không hồi hướng căn lành này đến những chỗ ấy.
Và đức Thế Tôn có dạy rằng: “Bố thí đưa đến sự giàu có lớn; trì giới đưa đến sinh lên cõi trời; nghe pháp đưa đến tuệ giác prajña lớn; tu tập thiền định đưa đến giải thoát duy thức khỏi ràng buộc”.
Lại nữa, đức Thế Tôn cũng dạy rằng: “Nguyện lực và ý hướng của bậc có công đức, được tăng trưởng nhờ hồi hướng căn lành”.
Và nếu công đức nào do cha đã tích lũy được từ bố thí, từ giữ giới, từ nghe pháp hoặc từ tu thiền, mà nguyện vọng như vậy của cha không được viên mãn như lời nguyện cha đã lập, thì cha sẽ hồi hướng tất cả căn lành ấy cho chúng sinh ở trong địa ngục. Những chúng sinh đang chịu những khổ đau dữ dội, cực ác, khủng khiếp trong địa ngục Vô gián, thì nhờ căn lành này, họ sẽ thoát ra khỏi chốn ấy, và được tái sinh thân người tại cõi Phật này. Họ sẽ hướng tâm đến pháp và luật do Như Lai tuyên thuyết, và chứng đạt cảnh giới tối thượng. Nếu quả báo của những chúng sinh ấy vẫn chưa hết, thì cha ngay khi ấy sẽ sinh vào đại địa ngục Vô gián. Thân thể của cha sẽ hiện ra bằng sức chánh định samādhi vi tế, với số lượng như bụi hạt hạ lượng tử của các cõi Phật. Mỗi thân của cha sẽ lớn bằng kích thước núi chúa Me-ru. Mỗi thân của cha cũng sẽ cảm nhận những cảm thọ đau khổ như vậy, như hiện nay một thân thể này cảm nhận sự đau khổ.
Mỗi thân mạng của cha sẽ trải qua các nguyên nhân địa ngục khốc liệt, dữ dội, gay gắt, với số lượng nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật.
Những chúng sinh hiện nay ở các thế giới khác trong mười phương, với số thế giới nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, đã tạo các nghiệp vô gián cho đến chỗ cùng cực của địa ngục Vô gián, và trong những đại kiếp đã qua, ở mười phương nơi các cõi Phật khác nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, những chúng sinh ấy đã đến, mà gây ra hoặc khởi lên các nghiệp vô gián, thì vì lợi ích của tất cả những chúng sinh ấy, cha sẽ ở lại trong đại địa ngục Vô gián avīci mà chịu các nghiệp ấy, và không để các chúng sinh ấy tái sinh vào địa ngục lần nào nữa. Tất cả những chúng sinh ấy sẽ hướng tâm đến các đức Phật Thế Tôn, thoát khỏi luân hồi, thoát khỏi trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, và đi vào thành phố Niết-bàn, yên ổn trong trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối.
Khi ấy, cha mới được thoát ra khỏi địa ngục sau một thời gian rất lâu dài. Chừng nào trong mười phương, tại các cõi Phật khác nhiều như bụi số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, bởi chúng sinh khởi tạo và phạm vào những nghiệp như vậy, tất phải chịu quả báo nhất định ở địa ngục Thiêu Cháy pratāpana, thì vì lợi ích của tất cả những chúng sinh ấy, cha sẽ ở lại trong đại địa ngục Thiêu Cháy pratāpana mà chịu các nghiệp ấy, và không để các chúng sinh ấy tái sinh vào địa ngục lần nào nữa. Tất cả những chúng sinh ấy sẽ hướng tâm đến các đức Phật Thế Tôn, thoát khỏi luân hồi, thoát khỏi trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, và đi vào thành phố Niết-bàn, yên ổn trong trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối.
Cũng như vậy, trong địa ngục Nung Nấu santāpana, địa ngục Rống Vang Khóc Gào lớn mahā-raurava, địa ngục Tập Hợp saṅghāta, địa ngục Dòng Kẻ Nóng Cháy kāla-sūtra, địa ngục Chết Đi Sống Lại saṃjīvana, cũng như vậy là các loài súc sinh đủ loại, cảnh giới cõi âm yama, loài Dạ-xoa nghèo đói, các loài quỷ đói kumbhāṇḍa, loài quỷ đói piśāca, A-tu-la, và garuḍa, thì vì lợi ích của tất cả những chúng sinh ấy, cha sẽ ở lại trong cảnh giới của họ mà chịu các nghiệp ấy, và không để các chúng sinh ấy tái sinh vào đường ác ấy lần nào nữa. Tất cả những chúng sinh ấy sẽ hướng tâm đến các đức Phật Thế Tôn, thoát khỏi luân hồi, thoát khỏi trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, và đi vào thành phố Niết-bàn, yên ổn trong trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối.
Khi nào tại các thế giới khác trong mười phương, nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, do chúng sinh gây ra nghiệp như vậy, và những người mù, điếc, không lưỡi, không tay, không chân, tâm trí mất chánh niệm, phải sinh khởi và ăn uống những vật bất tịnh, uống những thứ dơ bẩn, thì vì lợi ích của tất cả những chúng sinh ấy, cha sẽ ở lại trong cảnh giới của họ mà chịu các nghiệp ấy, và không để các chúng sinh ấy tái sinh vào đường ác ấy lần nào nữa. Tất cả những chúng sinh ấy sẽ hướng tâm đến các đức Phật Thế Tôn, thoát khỏi luân hồi, thoát khỏi trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, và đi vào thành phố Niết-bàn, yên ổn trong trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối.
Một lần nữa, cha sẽ sinh vào đại địa ngục Vô gián avīci, cho đến khi chúng sinh còn chấp giữ các uẩn (skandha), xứ (āyatana), giới (dhātu) trong vòng lặp luân hồi, thì cha sẽ chịu những khổ đau như vậy qua mọi cảnh giới: địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, Dạ-xoa, A-tu-la, loài quỷ La-sát, cho đến cả sự sinh ra làm người với đủ loại khổ đau, đúng như đã nói ở trước. Nếu nguyện vọng của cha về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác như vậy không được viên mãn.
Nhưng nếu nguyện vọng của cha về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác như vậy được viên mãn, như đã nói ở trước, thì nguyện các đức Phật Thế Tôn hãy là những vị chứng giám cho cha.
Các đức Phật Thế Tôn đang trụ trì, giáo hoá và thuyết pháp tại vô lượng vô biên các thế giới khác trong mười phương, những vị ấy sẽ là những bậc làm chứng và là những bậc biết rõ cho cha.
Nguyện, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, hãy thọ ký cho cha về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, rằng trong đại kiếp Hiền Thiện, khi con người có tuổi thọ là 120 tuổi, ở giữa loài người, cha sẽ thành một đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Cha sẽ có khả năng thành tựu Phật sự như vậy, đúng như những lời thệ nguyện mà cha đã phát ra từ trước.
Lời tán thán của toàn thể hội chúng trước đại nguyện của vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử
Lúc bấy giờ, toàn thể đại hội, cùng với chư Thiên, Gandharva, loài người và A-tu-la, ở khắp cõi đất và hư không, trừ ra đức Như Lai, tất cả đều rơi lệ, đảnh lễ đôi chân bằng lễ năm chi phần thân thể sát đất, rồi thưa rằng:
Lành thay, lành thay, thưa bậc Đại Bi mahā-kāruṇika! Sự nhớ nghĩ của Ngài thật sâu xa, đối với những chúng sinh nặng nghiệp duyên, Ngài đã khởi tâm đại bi. Ngài đã phát đại nguyện rất sâu. Với tâm ý đó, tất cả chúng sinh được che chở bởi đại bi, phần nhiều là những kẻ phạm tội vô gián, cho đến những kẻ chuyên tâm vào điều bất thiện, là những người có thể được giáo hóa, và đều đã được Ngài nhiếp thọ.
Bởi đại nguyện này, biết rõ rằng ngại, với tâm lần đầu tiên hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đã trở thành bậc thuốc hay cho chúng sinh, là nơi cứu hộ, và chính Ngài là vị vua thanh tịnh bất tử.
Toàn thể hội chúng khi ấy vừa khóc, vừa đảnh lễ chân của vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử theo lễ năm chi phần thân thể sát đất, rồi nói rằng:
Ôi, Ngài thật là Bậc thâm sâu!
Ngài không bám chấp cảm thọ lạc,
Với chúng sinh, Ngài đầy từ bi,
Ngài là tấm gương cho chúng tôi.
Bồ Tát Avalokiteśvara - Quán Thế Âm nói rằng:
Đối với chúng sinh còn vướng mắc,
Ngài lại hoàn toàn không vướng mắc;
Đối với nghĩa thật rất vi diệu,
Pháp vượt ngoài các căn giác quan,
Ngài vượt ngoài các căn giác quan.
Ngài là bậc làm chủ giác quan,
Và tuyên thuyết kho tàng trí tuệ,
Các năng lực trì giữ chân lý.
Bồ Tát Mahāsthāmaprāpta - Đại Thế Chí nói rằng:
Vì lợi ích vô số chúng sinh,
Chúng tôi đã tụ hội tại đây.
Đã khóc vì lòng ngại từ bi,
Điều ấy cực kỳ rất khó làm.
Bồ Tát Mañjuśrī - Văn Thù Sư Lợi nói rằng:
Ngài sức mạnh tinh tấn kiên cố,
Ngài tuệ giác sáng suốt thù thắng;
Ngài xứng đáng chúng tôi dâng cúng,
Bằng vòng hoa, hương thơm xoa ướp.
Bồ Tát Gaganamudra - Ấn Hư Không nói rằng:
Như thế, Ngài đã ban bố thí,
Tâm đại bi cùng khắp chúng sinh.
Trong thời kỳ suy mạt đen tối,
Ngài bậc Thầy, tướng hảo thù thắng.
Bồ Tát Vajraccheda-prajñā-avabhāsa - Ánh Sáng Cát Tường Tuệ Giác Prajñā Kim Cương Cắt Đứt Tất Cả nói rằng:
Như hư không rộng lớn vô biên,
Cũng như vậy, Ngài nơi nương tựa,
Tâm đại bi tối thắng vô thượng.
Ngài chỉ bày lối sống Tỉnh Thức,
Bậc dẫn đường cho các chúng sinh.
Bồ Tát Vega-vairocana - Sức Mạnh Chuyển Động Tốc Lực Mặt Trời Toàn Giác Vairocana nói rằng:
Không ai khác có lòng từ bi,
Đối với tất cả các chúng sinh,
Chỉ ngoại trừ các đức Như Lai.
Ngài đầy đủ tất cả công đức,
Tuệ prajñā thù thắng sáng suốt.
Bồ Tát Siṃhagandha - Hương Sư Tử nói rằng:
Trong thời vị lai, kiếp Hiền Thiện,
Khi nghiệp chướng phiền não hoành hành,
Ngài sẽ đạt danh vọng, tiếng tăm,
Và cứu độ chúng sinh đau khổ.
Bồ Tát Samantabhadra - Phổ Hiền nói rằng:
Chúng sinh trải nhiều đời sinh tử,
Nương sai lầm, rơi vào hiểm nạn,
Bị nắm giữ dòng giống đã cháy,
Sẽ ăn thịt và máu của Ngài.
Bồ Tát Akṣobhya - Bất Động nói rằng:
Những chúng sinh hiện đang bị nhốt,
Trong quả trứng vô minh mờ tối,
Sinh khởi trong bùn lầy phiền não,
Bị nắm giữ dòng giống đã cháy,
Và phạm tội vô gián đau khổ.
Bồ Tát Gandhahasti - Voi Hương cũng nói rằng:
Ngài thấy sự nguy hiểm tương lai,
Như thấy ảnh hiện trong gương sáng,
Biết rằng những kẻ bị mắc kẹt,
Thuộc dòng giống đã bị cháy đen,
Là những người chống lại chánh pháp.
Bồ Tát Ratnaketu - Ngọn Cờ Ngọc Quý nói rằng:
Ngài là bậc trang nghiêm trí tuệ,
Giới hạnh, chánh định samadhi,
Thêm vào đó lòng từ và bi.
Bị nắm giữ dòng giống đã cháy,
Chính là kẻ phỉ báng bậc Thánh.
Bồ Tát Vigata-bhaya-saṃtāpa - Vượt Qua Mọi Sợ Hãi Khổ Đau nói rằng:
Ngài thấy sự khổ đau chúng sinh,
Đang đi trên đường ba ác đạo,
Bị nắm giữ dòng giống đã cháy,
Nương tựa vào keo kiệt nhỏ nhen.
Bồ Tát Utpala-hasta - Tay Cầm Hoa Sen Xanh Utpala nói rằng:
Bằng lòng từ, trí tuệ, tinh tấn,
Ngài đã chế ngự các hội chúng.
Bị nắm giữ dòng giống đã cháy,
Phải chịu khổ bức bách sinh tử.
Bồ Tát Jñāna-kīrti - Trí Danh nói rằng:
Những chúng sinh bị nhiều bệnh hoạn,
Bị cuốn xoáy bởi gió phiền não.
Ngài làm họ an tĩnh vắng lặng,
Bằng dòng nước trí tuệ jñāna,
Và hàng phục sức mạnh ma quân.
Bồ Tát Dharaṇī-mudra - Ấn Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī nói rằng:
Chúng tôi không tinh tấn kiên cố,
Để trừ sạch trói buộc phiền não.
Như ngài, bậc dũng mãnh mặt trời,
Phá tan lưới phiền não tận gốc.
Bồ Tát Utpala-candra - Mặt Trăng Hoa Sen Xanh Utpala nói rằng:
Ngài tinh tấn vững chắc, hăng hái,
Chỗ nương tựa công đức từ bi.
Ngài giải thoát tất cả ba cõi,
Khỏi xiềng xích sinh tử trói buộc.
Bồ Tát Vimalendra - Đức Vua Thanh Tịnh nói rằng:
Bậc Đại Bi, cảnh giới Bồ Tát,
Chúng tôi thảy đều kính lễ Ngài.
Ngài phát khởi nhân duyên lòng từ,
Nơi quy hướng quả thật tôn quý.
Bồ Tát Bala-vega-dhārī - Sức Mạnh Trì Giữ Tốc Lực nói rằng:
Trong kiếp trược đầy dẫy phiền não,
Ngài đã nương tựa nơi Tỉnh Thức.
Ngài chặt đứt gốc rễ phiền não,
Để đại nguyện thành tựu vững chắc.
Bồ Tát Jyotipāla - Người Giữ Ánh Sáng Lửa nói rằng:
Ngài đã lập lời nguyện thanh tịnh,
Sánh bằng kho trí tuệ vô tận.
Ngài sống trọn lối sống Bồ Tát,
Là phương thuốc cứu độ chúng sinh.
Bồ Tát Bala-sandarśana - Hiện Sức Mạnh Đại Bồ Tát, vừa khóc vừa đảnh lễ, nói rằng:
Than ôi, ngọn đuốc trí rực sáng,
Tiêu trừ mọi bệnh khổ phiền não.
Bậc đại từ bi bừng cháy sáng,
Bậc giải thoát chúng sinh đau khổ.
Và này thiện nam tử, hội chúng gồm đủ chư Thiên, Gandharva và loài người, đã đảnh lễ đôi chân của vị Bà-la-môn bằng năm chi phần thân thể sát đất, rồi chắp tay đứng lại, dùng những bài kệ có cấu tứ muôn vẻ, khen ngợi rồi an trụ.
Và này thiện nam tử, khi vị Bà-la-môn có tên là Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử đặt đầu gối phải xuống đất trước mặt đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, khi ấy, một sự chấn động lớn liền xuất hiện. Khắp mười phương, trong các cõi Phật nhiều như số hạt hạ lượng tử, mặt đất rung động, lay chuyển, rung chuyển mạnh, xao động, chấn động, rung động dữ dội, dao động, chấn động mạnh, rung chuyển toàn diện, vang động, vang rền và vang động dữ dội.
Lại nữa, một ánh sáng lớn xuất hiện. Một trận mưa hoa muôn vẻ được rải xuống — như hoa māndārava, hoa mahā-māndārava cho đến hoa ánh sáng vô tận ananta-prabhā — những loại hoa như vậy đã được rưới xuống.
Khi ấy, trong mười phương, ở các thế giới nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, các đức Phật Thế Tôn đang an trụ, đang duy trì, hoằng hóa, và tại các cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh cũng như không thanh tịnh, đều thuyết pháp cho chúng sinh.
Và các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát đang ngồi trước các đức Phật Thế Tôn để nghe pháp, khi thấy sự chấn động của mặt đất ấy, lại thưa hỏi các đức Phật Thế Tôn ấy rằng:
“Thưa đức Thế Tôn, vì nhân và duyên nào mà sự chấn động đất lớn xuất hiện trong thế gian, và vì sao lại có trận mưa hoa lớn được rưới xuống như vậy?”
Lời tán tán của đức Thế Tôn ratnacandra - Ngọc Quý Mặt Trăng Như Lai tại cõi Phật Ratnavicayā - Bảo Tích, cùng vô lượng vô biên các đức Phật ở Phương Đông
Lúc bấy giờ, ở phương Đông, từ cõi Phật này vượt qua số cõi Phật bằng với số cát của một sông Hằng, có một thế giới tên là Ratnavicayā - Bảo Tích.
Tại cõi Phật Bảo Tụ, có đức Thế Tôn hiệu là ratnacandra - Ngọc Quý Mặt Trăng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đang an trụ, giáo hóa, được vây quanh và dẫn đầu bởi vô lượng vô số các vị Bồ Tát, và thuyết giảng bài giảng pháp môn về các câu chuyện Đại Thừa (mahāyāna-kathā).
Tại cõi Phật đó, có hai vị chúng sinh tỉnh thức, là các vị Đại Bồ Tát, một vị tên là ratnaketu - Ngọn Cờ Ngọc Quý và một vị khác tên là candraketu - Ngọn Cờ Mặt Trăng. Hai vị Bồ Tát ấy hướng về đức Thế Tôn Ngọc Quý Mặt Trăng Như Lai, chắp tay và thưa rằng:
“Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nguyên nhân và duyên gì khiến cho sự chấn động đất lớn xuất hiện trong thế gian, và vì sao có trận mưa hoa lớn được rưới xuống như vậy?”
Đức Thế Tôn Ngọc Quý Mặt Trăng Như Lai nói rằng:
Này thiện nam tử, ở phương Tây, từ cõi Phật này vượt qua số cõi Phật bằng số cát của một sông Hằng, có một thế giới tên là santīraṇa - Bờ Bên Kia Hoàn Toàn.
Tại cõi Phật santīraṇa ấy, có đức Thế Tôn hiệu là Tạng Ngọc Quý Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đang an trụ, giáo hóa, và thọ ký cho vô số hàng tỷ Bồ Tát về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ngài đang thuyết giảng bài pháp có tên là - Trang Nghiêm Đại Nguyện Hiển Hiện Cảnh Giới Bồ Tát (bodhisattva-viṣaya-saṃdarśana-praṇidhāna-vyūha) và Trang Nghiêm Cửa Vào Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Thuộc Cảnh Giới Chánh Định Samādhi (samādhi-viṣaya-dhāraṇī-mukha-vyūha).
Và ở đó, có một vị chúng sinh tỉnh thức, là một vị Đại Bồ Tát được mọi người gọi là Đại Bi mahā-karuṇika, với tâm đại bi, đã phát một nguyện lớn, đã tuyên nói lời nguyện ấy hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và được thọ ký.
Các nguyện của vị Bồ Tát ấy, không giống như những lời nguyện mà vô số hàng tỷ chúng sinh đã phát khởi hướng đến đạo quả Tỉnh Thức, với các trang nghiêm công đức của cõi Phật đã được nhiếp thọ, và các chúng sinh đáng được giáo hóa cũng đã được nhiếp thọ.
Từ khắp mọi phương, vị Đại Bồ Tát duy nhất ấy, tràn đầy tâm đại bi, là người vượt hơn toàn thể đại hội, đã nhiếp thọ hết thảy các chúng sinh đáng được hóa độ trong cõi Phật, thuộc thời kỳ đen tối không có chánh pháp, đấu tranh phiền não, chịu đủ năm thứ cấu uế, đã tạo tội vô gián cực nặng, cho đến những kẻ tâm chuyên vào các căn bản bất thiện, và dòng tâm thức đã bị thiêu đốt.
Toàn thể đại hội ấy, gồm chư Thiên, Càn-thát-bà, loài người và A-tu-la trong thế giới, đã rời khỏi đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, mà hướng đến vị Đại Bi mahā-kāruṇika ở phương Tây, đảnh lễ bằng năm chi phần thân thể sát đất, chắp tay đứng trước và tán thán tướng tốt của Ngài.
Và vị Đại Bồ Tát ấy, ngồi trước đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, lắng nghe lời thọ ký.
Khi vị Đại Bồ Tát ấy, trước đức Thế Tôn, đặt đầu gối phải xuống đất, thì đức Thế Tôn Như Lai ấy, hiện ra nụ cười khiến cho trong mười phương, các thế giới nhiều bằng số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, đều chấn động, và mưa hoa được rưới xuống khắp.
Và ở tất cả những cõi Phật ấy, các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát vì muốn được khai thị và hiển bày hạnh nguyện của vị Bồ Tát Đại Bi ấy, cũng để cho các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát từ các phương và từ các cõi Phật nhiều bằng số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, được nhóm họp, cùng thuyết giảng bài pháp về lối sống không sợ hãi, trí biện tài vô ngại, khả năng biện thuyết viên dung, chỉ dạy cửa vào chánh định samādhi, nên đức Như Lai ấy đã hiện bày các thần biến như vậy.
Này thiện nam tử, khi ấy hai vị Bồ Tát ấy đã thưa hỏi đức Thế Tôn Ngọc Quý Mặt Trăng Như Lai như sau:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, vị Đại Bồ Tát Đại Bi kia đã phát khởi tâm Tỉnh Thức từ bao lâu rồi? Và Ngài đã tu hành lối sống Tỉnh Thức bao lâu, mà lại có thể thâu nhiếp trong thời kỳ đen tối không có chánh pháp của thế gian đủ năm cấu uế, trong cảnh chiến đấu dữ dội của phiền não, giáo hoá những chúng sinh đã tạo tội vô gián cực nặng, cho đến những kẻ tâm chuyên vào căn bản bất thiện và dòng tâm thức đã bị thiêu đốt?
Đức Thế Tôn Ngọc Quý Mặt Trăng Như Lai nói:
Hôm nay, này thiện nam tử, vị Bồ Tát Đại Bi ấy mới lần đầu tiên phát khởi tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Này thiện nam tử, các ông hãy đi đến cõi Phật Santīraṇa, để chiêm bái, đảnh lễ và cúng dường đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác. Các ông sẽ được nghe bài giảng pháp chỉ bày cửa vào chánh định samādhi và pháp dạy về lối sống không sợ hãi, trí biện tài vô ngại, khả năng biện thuyết viên dung.
Và hãy thưa hỏi vị Đại Bồ Tát Đại Bi ấy nhân danh ta, và nói rằng: ‘Đức Thế Tôn Ngọc Quý Mặt Trăng Như Lai hỏi thăm ông, bậc thiện nhân; và đã gửi đến đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca, cùng trao lời tán thán như sau:
“Chỉ mới lần đầu tiên phát tâm Tỉnh Thức, mà ông, thưa bậc thiện nhân, với lời nguyện trang nghiêm Đại Bi, đã làm vang khắp các cõi Phật trong vô số thế giới ở mười phương. Do đó, ông đã được danh hiệu là “Đại Bi Mahā-kāruṇika” khắp mọi nơi.
Vì vậy, thưa bậc thiện nhân, hãy tiếp tục giương cao ngọn cờ đại nguyện dẫn dắt bằng lời nguyện trang nghiêm Đại Bi cho các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ở phương Tây.
Vì vậy, ông hãy tiếp tục làm vang khắp âm thanh tiếng danh của ông trong vô số kiếp vị lai, ngang bằng số hạt hạ lượng tử của các cõi Phật, ở mười phương thế giới. Nhờ đó, vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ a-sam-khê chúng sinh đã được ông an lập, dẫn dắt và đặt vững vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, rồi được đem đến trước các đức Thế Tôn. Những vị ấy sẽ được an trụ vào quả vị Bất Thoái Chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Một số vị trong đó, nhờ lời nguyện ấy, sẽ nhiếp thọ sự trang nghiêm công đức của cõi Phật. Có những vị về sau sẽ nhận được lời thọ ký. Tất cả những vị được ông an lập nơi Tỉnh Thức, về sau, trong vô số kiếp ngang bằng số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, ở các thế giới mười phương, sẽ thành các đức Phật Toàn Giác, chuyển bánh xe chánh pháp, và bắt đầu từ ông mà tán thán.
Đây là ba lời tán tán, thật là tốt lành thay, thưa bậc thiện nhân!”
Bấy giờ, 290 triệu vị Bồ Tát, đồng thanh nói rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, chúng con cũng sẽ đi đến cõi Phật Santīraṇa, đến gần đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, để chiêm bái, đảnh lễ và phụng sự. Và cũng để chiêm bái, đảnh lễ bậc thiện nhân kia — người mà đức Như Lai đã gửi đến lời tán thán bằng ba lời tán thán, cùng với đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca.”
Bấy giờ, này thiện nam tử, đức Như Lai Ratnacandra nói rằng:
“Hãy đi, này các thiện nam tử, vào thời điểm mà các ông cho là thích hợp. Tại đó, các ông sẽ được nghe từ nơi đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bài giảng pháp chỉ bày cửa vào chánh định samādhi và lối sống không sợ hãi, trí biện tài vô ngại, khả năng biện thuyết viên dung.”
Khi ấy, hai vị thiện nam tử là Ngọn Cờ Ngọc Quý và Ngọn Cờ Mặt Trăng, từ nơi đức Thế Tôn Ngọc Quý Mặt Trăng Như Lai nhận lấy đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca, cùng với 290 triệu vị Bồ Tát lên đường rời khỏi thế giới Ratnavicayā - Bảo Tích.
Ví như ánh chớp, cũng vậy, từ hội chúng Bồ Tát tại cõi Phật Bảo Tích, họ liền biến mất, và hiện ra tại rừng cây mận jambūvana ở cõi Phật Santīraṇa.
Các Ngài đi đến chỗ đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai. Đến gần, các Ngài cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, rồi thực hiện sự cúng dường bằng nhiều loại thần biến trang nghiêm của Bồ Tát.
Đứng trước mặt đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, họ thấy vị Bà-la-môn và toàn thể hội chúng Bồ Tát đang chắp tay tán thán. Khi ấy, hai vị Bồ Tát kia khởi ý nghĩ rằng:
Đây chính là vị Bồ Tát Đại Bi mà đức Thế Tôn Ngọc Quý Mặt Trăng Như Lai đã gửi những đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca.”
Rồi hai vị Bồ Tát từ chỗ đức Thế Tôn lui ra, đem đoá hoa đến cho vị Bà-la-môn và nói rằng:
Thưa Bậc thiện nhân, đây là đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca mà đức Thế Tôn Ngọc Quý Mặt Trăng Như Lai đã gửi đến Ngài, và cũng gửi lời tán thán đến Ngài như sau:
“Chỉ mới lần đầu tiên phát tâm Tỉnh Thức, mà ông, thưa bậc thiện nhân, với lời nguyện trang nghiêm Đại Bi, đã làm vang khắp các cõi Phật trong vô số thế giới ở mười phương. Do đó, ông đã được danh hiệu là “Đại Bi Mahā-kāruṇika” khắp mọi nơi.
Vì vậy, thưa bậc thiện nhân, hãy tiếp tục giương cao ngọn cờ đại nguyện dẫn dắt bằng lời nguyện trang nghiêm Đại Bi cho các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ở phương Tây.
Vì vậy, ông hãy tiếp tục làm vang khắp âm thanh tiếng danh của ông trong vô số kiếp vị lai, ngang bằng số hạt hạ lượng tử của các cõi Phật, ở mười phương thế giới. Nhờ đó, vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ a-sam-khê chúng sinh đã được ông an lập, dẫn dắt và đặt vững vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, rồi được đem đến trước các đức Thế Tôn. Những vị ấy sẽ được an trụ vào quả vị Bất Thoái Chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Một số vị trong đó, nhờ lời nguyện ấy, sẽ nhiếp thọ sự trang nghiêm công đức của cõi Phật. Có những vị về sau sẽ nhận được lời thọ ký. Tất cả những vị được ông an lập nơi Tỉnh Thức, về sau, trong vô số kiếp ngang bằng số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, ở các thế giới mười phương, sẽ thành các đức Phật Toàn Giác, chuyển bánh xe chánh pháp, và bắt đầu từ ông mà tán thán.
Đây là ba lời tán tán, thật là tốt lành thay, thưa bậc thiện nhân!”
Lúc bấy giờ, từ vô lượng vô số cõi Phật ở phương Đông, các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát đã đến cõi Phật Santīraṇa. Các vị ấy đều nhận lấy đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca từ các đức Phật Thế Tôn của mình, rồi các Ngài đã gửi hoa đến vị Bà-la-môn, và cũng gửi ba lời tán thán, như đã nói ở trước.
Lời tán thán của đức Thế Tôn Siṃhavijṛṃbhiteśvararājā - Đức Vua Chúa Tể Uy Lực Hiển Hiện Sư Tử Vươn Mình Như Lai tại cõi Phật Niryūhavijṛṃbhita - Trang Nghiêm Mở Rộng, cùng vô lượng vô biên các đức Phật ở phương Nam
Như vậy, ở phương Nam, từ cõi Phật này đi vượt qua 9.700 tỷ tỷ tỷ cõi Phật. Tại đó có thế giới tên là Niryūhavijṛṃbhita - Trang Nghiêm Mở Rộng.
Ở cõi Phật Trang Nghiêm Mở Rộng đó, có đức Thế Tôn hiệu là Siṃhavijṛṃbhiteśvararājā - Đức Vua Chúa Tể Uy Lực Hiển Hiện Sư Tử Vươn Mình Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đang trụ thế, giáo hoá. Ngài thuyết giảng các câu chuyện về Đại Thừa thanh tịnh cho các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát đã thanh tịnh.
Trong hội chúng ấy có hai vị chúng sinh tỉnh thức, đều là các vị Đại Bồ Tát: một là Jñānavajraketu - Ngọn Cờ Trí Tuệ Kim Cương, và vị thứ hai là Siṃhavajraketu - Ngọn Cờ Sư Tử Kim Cương.
Hai vị Bồ Tát ấy thưa hỏi đức Thế Tôn Đức Vua Chúa Tể Uy Lực Hiển Hiện Sư Tử Vươn Mình Như Lai rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, do nhân gì và duyên gì khiến trong thế giới này có sự xuất hiện của sự chấn động lớn của đại địa, và trận mưa hoa lớn như vậy?”
Và tuần tự sự việc diễn ra cũng giống như trước đã nói. Các vị Bồ Tát gồm Bồ Tát Ngọn Cờ Trí Tuệ Kim Cương và Bồ Tát Ngọn Cờ Sư Tử Kim Cương đều nhận đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca từ đức Thế Tôn Đức Vua Chúa Tể Uy Lực Hiển Hiện Sư Tử Vươn Mình Như Lai, rồi các Ngài đi đến cõi Phật Santīraṇa, vào rừng cây mận jambūvana, đảnh lễ đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, và gửi hoa đến vị Bà-la-môn, và cũng gửi ba lời tán thán, như đã nói ở trước.
Lúc bấy giờ, từ vô lượng vô số cõi Phật ở phương Nam, có vô lượng vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ a-sam-khê các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát đã đến cõi Phật Santīraṇa. Các vị ấy đều nhận lấy đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca từ các đức Phật Thế Tôn của mình, rồi các Ngài đã gửi hoa đến vị Bà-la-môn, và cũng gửi ba lời tán thán, như đã nói ở trước.
Lời tán thán của đức Thế Tôn Jitendriyaviśālanetra - Bậc Có Đôi Mắt Rộng Lớn Chiến Thắng Làm Chủ Hoàn Toàn Các Căn Giác Quan Như Lai tại cõi Phật Jayāvatī - Chiến Thắng, cùng vô lượng vô biên các đức Phật ở phương Tây
Bấy giờ, ở phương Tây, từ cõi Phật này đi vượt qua 8.900 tỷ tỷ tỷ cõi Phật. Tại đó có cõi Phật tên là Jayāvatī - Chiến Thắng.
Ở cõi ấy, có đức Thế Tôn hiệu là Jitendriyaviśālanetra - Bậc Có Đôi Mắt Rộng Lớn Chiến Thắng Làm Chủ Hoàn Toàn Các Căn Giác Quan Như Lai, đang trụ thế, và giáo hoá. Ngài thuyết pháp bằng ba thừa cho bốn chúng, gồm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cư sĩ nam và Cư sĩ nữ.
Tại đó, có hai vị chúng sinh tỉnh thức, đều là các vị Đại Bồ Tát, vị thứ nhất tên là Bhadravairocana - Mặt Trời Hiền Thiện Toàn Giác Vairocana, và vị thứ hai là Siṃhavijṛṃbhitakāya - Người Có Thân Tướng Uy Mãnh Như Sư Tử Vươn Mình.
Hai vị thiện nhân ấy thưa hỏi đức Thế Tôn Bậc Có Đôi Mắt Rộng Lớn Chiến Thắng Làm Chủ Hoàn Toàn Các Căn Giác Quan Như Lai rằng:
“Nguyên nhân từ đâu có sự xuất hiện của đại địa chấn động lớn, và trận mưa hoa lớn như vậy?”
Và tuần tự sự việc diễn ra cũng giống như trước đã nói. Các vị Bồ Tát gồm Bồ Tát Mặt Trời Hiền Thiện Toàn Giác Vairocana và Bồ Tát Người Có Thân Tướng Uy Mãnh Như Sư Tử Vươn Mình đều nhận đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca từ đức Thế Tôn Bậc Có Đôi Mắt Rộng Lớn Chiến Thắng Làm Chủ Hoàn Toàn Các Căn Giác Quan Như Lai, rồi các Ngài đi đến cõi Phật Santīraṇa, vào rừng cây mận jambūvana, đảnh lễ đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, và gửi hoa đến vị Bà-la-môn, và cũng gửi ba lời tán thán, như đã nói ở trước.
Lúc bấy giờ, từ vô lượng vô số cõi Phật ở phương Tây, có vô lượng vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ a-sam-khê các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát đã đến cõi Phật Santīraṇa. Các vị ấy đều nhận lấy đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca từ các đức Phật Thế Tôn của mình, rồi các Ngài đã gửi hoa đến vị Bà-la-môn, và cũng gửi ba lời tán thán, như đã nói ở trước.
Lời tán thán của đức Thế Tôn Lokeśvararājā - Thế Gian Thiên Vương Như Lai tại cõi Phật Jambū - Cây Mận, cùng vô lượng vô biên các đức Phật ở phương Bắc
Bấy giờ, ở phương Bắc, từ cõi Phật này vượt qua 100 tỷ tỷ tỷ cõi Phật. Tại đó có thế giới tên là Jambū - Cây Mận.
Ở thế giới ấy, có đức Thế Tôn hiệu là Lokeśvararājā - Thế Gian Thiên Vương Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đang thuyết giảng các bài pháp về Đại Thừa thanh tịnh cho các vị Bồ Tát đã an trụ và khởi hành trên cỗ xe Đại Thừa thanh tịnh.
Tại đó có hai vị Bồ Tát: một vị tên là Acalasthāvara - Trụ Vững Kiên Cố Bất Động, vị thứ hai là Prajñādhara - Trì Giữ Tuệ Giác Prajñā. Hai vị ấy thưa hỏi đức Thế Tôn Thế Gian Thiên Vương Như Lai rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nhân gì và duyên gì khiến trong thế giới này có sự xuất hiện của đại địa chấn động lớn, và trận mưa hoa lớn như vậy?
Và tuần tự sự việc diễn ra cũng giống như trước đã nói. Các vị Bồ Tát gồm Bồ Tát Trụ Vững Kiên Cố Bất Động và Bồ Tát Trì Giữ Tuệ Giác Prajñā đều nhận đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca từ đức Thế Tôn Thế Gian Thiên Vương Như Lai, rồi các Ngài đi đến cõi Phật Santīraṇa, vào rừng cây mận jambūvana, đảnh lễ đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, và gửi hoa đến vị Bà-la-môn, và cũng gửi ba lời tán thán, như đã nói ở trước.
Lúc bấy giờ, từ vô lượng vô số cõi Phật ở phương Bắc, có vô lượng vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ a-sam-khê các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát đã đến cõi Phật Santīraṇa. Các vị ấy đều nhận lấy đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca từ các đức Phật Thế Tôn của mình, rồi các Ngài đã gửi hoa đến vị Bà-la-môn, và cũng gửi ba lời tán thán, như đã nói ở trước.
Lời tán thán của đức Thế Tôn Vigatabhayaparyutthānaghoṣa - Âm Thanh Trỗi Dậy Hoàn Toàn Dứt Sạch Mọi Sợ Hãi Như Lai tại cõi Phật Vigatatamo’ndhakārā - Hoàn Toàn Rời Khỏi Bóng Tối U Ám, cùng vô lượng vô biên các đức Phật ở phương Dưới
Bấy giờ, ở phương Dưới, từ cõi Phật này vượt qua 8.800 tỷ tỷ tỷ cõi Phật. Tại đó có thế giới tên là Vigatatamo’ndhakārā - Hoàn Toàn Rời Khỏi Bóng Tối U Ám.
Ở đó có đức Thế Tôn hiệu là Vigatabhayaparyutthānaghoṣa - Âm Thanh Trỗi Dậy Hoàn Toàn Dứt Sạch Mọi Sợ Hãi Như Lai, đang trụ thế, và giáo hoá. Ngài thuyết pháp bằng ba thừa cho bốn chúng, gồm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cư sĩ nam và Cư sĩ nữ.
Tại cõi Phật ấy, có hai vị chúng sinh tỉnh thức, đều là các vị Đại Bồ Tát: một vị tên là Rajavairocana - Vua Mặt Trời Tối Thượng Toàn Giác Vairocana, vị thứ hai là Svargavairocana - Mặt Trời Thiên Giới Toàn Giác Vairocana.
Hai vị ấy thưa hỏi đức Thế Tôn Âm Thanh Trỗi Dậy Hoàn Toàn Dứt Sạch Mọi Sợ Hãi Như Lai rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nhân gì và duyên gì khiến trong thế giới này có sự xuất hiện của đại địa chấn động lớn, và trận mưa hoa lớn như vậy?
Và tuần tự sự việc diễn ra cũng giống như trước đã nói. Các vị Bồ Tát gồm Bồ Tát Vua Mặt Trời Tối Thượng Toàn Giác Vairocana và Bồ Tát Mặt Trời Thiên Giới Toàn Giác Vairocana đều nhận đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca từ đức Thế Tôn Âm Thanh Trỗi Dậy Hoàn Toàn Dứt Sạch Mọi Sợ Hãi Như Lai, rồi các Ngài đi đến cõi Phật Santīraṇa, vào rừng cây mận jambūvana, đảnh lễ đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, và gửi hoa đến vị Bà-la-môn, và cũng gửi ba lời tán thán, như đã nói ở trước.
Lúc bấy giờ, từ vô lượng vô số cõi Phật ở phương Dưới, có vô lượng vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ a-sam-khê các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát đã đến cõi Phật Santīraṇa. Các vị ấy đều nhận lấy đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca từ các đức Phật Thế Tôn của mình, rồi các Ngài đã gửi hoa đến vị Bà-la-môn, và cũng gửi ba lời tán thán, như đã nói ở trước.
Lời tán thán của đức Thế Tôn Prasphulitakusumavairocana - Hoa Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Nở Rộ Rực Rỡ Như Lai tại cõi Phật Saṃkusumitā - Hoa Nở Rộ Toàn Diện, cùng vô lượng vô biên các đức Phật ở phương Trên
Bấy giờ, ở phương Trên, từ cõi Phật này vượt qua 200.000 cõi Phật, có thế giới tên là Saṃkusumitā - Hoa Nở Rộ Toàn Diện.
Tại cõi Phật Hoa Nở Rộ Toàn Diện ấy có đức Thế Tôn hiệu Prasphulitakusumavairocana - Hoa Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Nở Rộ Rực Rỡ Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đang trụ thế, giáo hoá và thuyết pháp bằng ba thừa cho bốn chúng, gồm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cư sĩ nam và Cư sĩ nữ.
Trong cõi Phật ấy có hai vị chúng sinh tỉnh thức, đều là vị Đại Bồ Tát: một vị là Sva-viṣaya-saṃkopita-viṣaya - Cảnh Giới Chính Mình Đều Nhận Biết Được Cảnh Giới Bị Rối Loạn Xáo Trộn, vị thứ hai là Dhāraṇī-saṃpraharṣaṇa-vikopita - Chấn Động Bởi Cảm Ứng Vui Mừng Mạnh Mẽ Nhờ Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī.
Hai vị thiện nhân này đã thưa hỏi đức Thế Tôn Hoa Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Nở Rộ Rực Rỡ Như Lai rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nhân gì và duyên gì khiến trong thế giới này xuất hiện đại địa chấn lớn và trận mưa hoa lớn như vậy?
Đức Thế Tôn Hoa Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Nở Rộ Rực Rỡ Như Lai đáp:
Này thiện nam tử, ở phương Dưới, từ cõi Phật này vượt qua 200.000 cõi Phật, có thế giới tên là Santīraṇa.
Tại đó có đức Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, hiệu là Tạng Ngọc Quý, đang trụ thế và thuyết pháp. Ngài giảng bài pháp Hiện Rõ Cửa Vào Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī, thuộc cảnh giới chánh định samādhi trang nghiêm, với cảnh giới đại nguyện, hiện cảnh giới các cõi của Bồ Tát khi thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và thọ ký cho vô số hàng tỷ chúng sinh (anuttarāyāṃ samyak-saṃbodhau bodhisattva-viṣaya-kṣetra-sandarśana-praṇidhāna-viṣaya-vyūha-samādhi-viṣaya-dhāraṇī-mukha-niryūha).
Ở đó có một vị chúng sinh tỉnh thức, là một vị Đại Bồ Tát tên là mahā-kāruṇika - Đại Bi, đã phát nguyện rộng lớn, lời nguyện được thấm nhuần bởi tâm đại bi, và vị ấy đã thực hiện và khuyến khích thọ ký cho các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nguyện ấy được khởi phát như ngọn cờ dẫn đường cho các đại nguyện, giống như vô số hàng tỷ Bồ Tát đã từng phát nguyện trang nghiêm công đức cõi Phật và nhiếp thọ các chúng sinh đáng độ.
Vị Đại Bồ Tát Đại Bi ấy, tràn đầy tâm đại bi, đã vượt hơn toàn thể hội chúng, nhiếp thọ cõi Phật đầy năm thứ uế trược, nơi rừng phiền não của thời kỳ đen tối không có chánh pháp. Ngài nhiếp thọ tất cả chúng sinh đáng độ, gồm cả những kẻ tạo tội ngũ nghịch, những người tâm chuyên chú vào gốc bất thiện và những kẻ đã bị thiêu cháy thiện căn, dòng tâm thức của họ đã bị thiêu rụi.
Toàn thể hội chúng cùng với chư Thiên, Càn-thát-bà, A-tu-la và loài người đã bỏ việc cúng dường đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, mà khởi ý cúng dường vị Bồ Tát Đại Bi ấy. Họ đảnh lễ bằng năm chi phần thân thể sát đất, chắp tay, đứng trước Ngài và tán thán công đức.
Vị Đại Bồ Tát ấy ngồi trước mặt đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, lắng nghe lời thọ ký. Khi Ngài đặt gối phải xuống đất trước mặt đức Thế Tôn, thì đức Thế Tôn ấy mỉm cười, những hiện tượng thần biến đại địa chấn động và trận mưa hoa rất lớn liền diễn ra.
Khi ấy, trong khắp mười phương, ở các thế giới nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, đại địa rung chuyển sáu cách: dao động, chấn động, rung chuyển mạnh, lắc mạnh, và cuối cùng là trận mưa hoa rơi xuống khắp nơi.
Từ tất cả các cõi Phật ấy, các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát đã đồng hội tụ lại vì mục đích Tỉnh Thức cho chúng sinh, vì muốn biểu hiện hạnh nguyện và lối sống của Bồ Tát, và để cùng tụ hội về cõi Phật này từ mười phương thế giới có số lượng nhiều bằng số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, nhằm nghe pháp và hoằng dương bài giảng “Lối Sống Không Sợ Hãi Hướng Dẫn Cửa Vào Chánh Định Samādhi” (samādhi-mukha-nirdeśa-caryā-vaiśāradya). Vì thế, đức Như Lai đã thị hiện những thần biến kỳ diệu như vậy.
Lúc ấy, hai vị thiện nam tử là Bồ Tát Cảnh Giới Chính Mình Đều Nhận Biết Được Cảnh Giới Bị Rối Loạn Xáo Trộn Đại Bồ Tát, và Bồ Tát Chấn Động Bởi Cảm Ứng Vui Mừng Mạnh Mẽ Nhờ Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Đại Bồ Tát – đã đồng thưa hỏi đức Thế Tôn Hoa Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Nở Rộ Rực Rỡ Như Lai rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, vị Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát kia đã phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác từ bao lâu rồi?
Và trong bao lâu, Ngài đã hành trì lối sống Bồ Tát mà có thể nhiếp thọ được các chúng sinh đáng độ trong thời đen tối lớn không có chánh pháp, ở thế giới ngập đầy năm thứ ô nhiễm, nơi rừng phiền não mãnh liệt, gồm cả những chúng sinh tạo tội vô gián, người bị chuyên chú và đã lún sâu vào gốc rễ bất thiện, và cả những người có chủng tánh đã bị thiêu đốt, dòng tâm thức của họ đã bị thiêu rụi?
Đức Thế Tôn Hoa Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Nở Rộ Rực Rỡ Như Lai đáp:
Ngay hôm nay, này thiện nam tử, vị Bồ Tát Đại Bi ấy lần đầu tiên phát khởi tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Hãy đi, này các thiện nam tử, đến thế giới Saṃtīraṇa để chiêm ngưỡng, đảnh lễ, và cúng dường đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác. Hãy đến để lắng nghe bài giảng pháp “Lối Sống Không Sợ Hãi Hướng Dẫn Cửa Vào Chánh Định Samādhi”.
Hãy hỏi vị chúng sinh tỉnh thức Đại Bồ Tát ấy, là hiện thân của Đại Bi, theo lời dặn của Ta. Và hãy nói như sau:
Đức Thế Tôn Hoa Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Nở Rộ Rực Rỡ Như Lai thăm hỏi Ngài, bậc thiện nhân, và gửi đến Ngài đóa hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng Candraroca, cùng với lời tán thán rằng:
Bởi vì, thưa bậc thiện nhân, với lần đầu tiên phát tâm và lời tuyên thuyết Đại Bi, Ngài đã khiến cho mười phương thế giới, nhiều bằng số hạt hạ lượng tử trong các cõi Phật, đều được lấp đầy bởi âm thanh Đại Bi ấy; và danh hiệu “Đại Bi mahā-karuṇā” đã được Ngài tiếp nhận.
Vì vậy, thưa bậc thiện nhân, thật tốt lành thay, Ngài lại càng giương cao ngọn cờ dẫn đạo của đại nguyện bằng lời tuyên thuyết Đại Bi, dành cho hàng chúng sinh tỉnh thức, là các Đại Bồ Tát đã khởi hành trên cỗ xe Đại Thừa Đại Bi ở các cõi phương Tây.
Do đó, thưa bậc thiện nhân, thật tốt lành thay, Ngài sẽ khiến cho mười phương thế giới, với số lượng bằng số hạt hạ lượng tử của các cõi Phật, trải qua a-sam-khê kiếp, đều được vang vọng danh tiếng của Ngài.
Vì vậy, thưa bậc thiện nhân, vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ a-sam-khê chúng sinh – đã được Ngài khiến an trụ, an lập, và kiên cố trong Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, được đưa đến trước các đức Thế Tôn, và được thiết lập vào địa vị bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại có một số chúng sinh đáng độ, ngay tại nơi đức Thế Tôn ấy, đã được nhiếp thọ các công đức trang nghiêm của cõi Phật, nhờ nguyện lực, và được bao phủ bởi ánh sáng đại bi của chính Ngài. Những ai do Ngài khiến cho an trụ nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà hiện nay chưa nhận được thọ ký, thì những vị ấy, về sau, cũng sẽ nhận được thọ ký.
Tất cả những vị ấy, về sau, trong khoảng vô số a-sam-khê kiếp nhiều bằng số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, sẽ thành tựu quả vị Phật tại các thế giới khác nhiều bằng với số lượng hạt hạ lượng tử trong mười phương cõi Phật, và sẽ chuyển bánh xe pháp chánh pháp, bắt đầu từ chính Ngài, mà tán thán.
Vì lý do thứ ba này, thật là tốt lành thay, thưa bậc thiện nhân!”
Lúc bấy giờ, vô số hàng tỷ vị Bồ Tát đồng thanh thưa rằng:
Chúng con, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, cũng nguyện đến cõi Phật Saṃtīraṇa, để được chiêm ngưỡng, đảnh lễ và cúng dường đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, hiệu là Tạng Ngọc Quý. Và cũng để được chiêm ngưỡng, đảnh lễ, cúng dường vị thiện nhân – người mà đức Như Lai đã gửi lời tán thán bằng ba phương diện, cùng với đóa hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca này.
Bấy giờ, đức Thế Tôn Hoa Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Nở Rộ Rực Rỡ Như Lai bảo các vị ấy rằng:
Hãy đi, này các thiện nam tử, khi nào các ông cho là đúng thời. Khi đến nơi ấy, các ông sẽ được nghe bài giảng pháp về “Lối Sống Không Sợ Hãi Hướng Dẫn Cửa Vào Chánh Định Samādhi” từ nơi đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai.
Lúc bấy giờ, hai vị Bồ Tát, gồm Bồ Tát Cảnh Giới Chính Mình Đều Nhận Biết Được Cảnh Giới Bị Rối Loạn Xáo Trộn Đại Bồ Tát, và Bồ Tát Chấn Động Bởi Cảm Ứng Vui Mừng Mạnh Mẽ Nhờ Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī đã tiếp nhận đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca từ nơi đức Thế Tôn Hoa Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Nở Rộ Rực Rỡ Như Lai, và cùng với vô số hàng tỷ Bồ Tát, khởi hành từ cõi Phật Hoa Nở Rộ Toàn Diện ấy, trong một sát-na, các vị ấy đã đến cõi Phật này. Các Ngài an trụ tại vườn cây mận Jambūvana, và tiến đến gần đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai.
Bấy giờ, toàn thể cõi Phật Saṃtīraṇa đã được lấp đầy bởi các vị Bồ Tát thuộc Đại Thừa Mahāyānika, Thanh Văn Thừa, Độc Giác Phật Thừa, các thiện nam tử, chư thiên, cho đến các vị mahoraga. Tình trạng ấy được ví giống như: một cánh đồng mía, hoặc đồng cỏ lau, hoặc đồng mè, hoặc ruộng lúa, đều trổ bông đầy đủ, tốt tươi, sung mãn.
Cũng như vậy, vào lúc bấy giờ, cõi Phật Saṃtīraṇa đã đầy khắp các vị hành giả Đại Thừa, gồm các thiện nam tử, chư thiên, và các mahoragā.
Các vị Bồ Tát ấy đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai bằng trán, rồi dùng nhiều loại thần lực của chánh định samādhi và các biến hoá của Bồ Tát để cúng dường.
Rồi trông thấy vị Bà-la-môn trước mặt đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, cùng với các hội chúng trong toàn cõi, tất cả đều chắp tay, đứng và nói lời tán thán. Các vị Bồ Tát ấy nghĩ rằng: “Đây chính là vị Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát, người mà đức Thế Tôn Hoa Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Nở Rộ Rực Rỡ Như Lai đã trao tặng những đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng Candraroca.”
Rồi các vị Bồ Tát ấy từ nơi đức Thế Tôn lui lại, đem những đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng Candraroca ấy dâng lên vị Bà-la-môn, và nói:
“Những đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng Candraroca này đã được đức Thế Tôn Hoa Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Nở Rộ Rực Rỡ Như Lai gửi đến cho Ngài, và lời tán thán cũng đã được ban cho Ngài.”
Như đã nói ở trước, lời tán thán được trình bày bằng ba yếu tố là như vậy.
Và những đoá hoa ấy đã được rơi xuống như mưa trong các cõi không có Phật. Và những cõi Phật ấy đều được tràn đầy bởi các âm thanh thiện lành khác nhau, như âm thanh “Phật”, âm thanh “Pháp”, âm thanh “Tăng”, âm thanh “Ánh Sáng”, âm thanh “Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia”, âm thanh “Sức Mạnh”, âm thanh “Không Sợ Hãi”, âm thanh “Thần Thông”, âm thanh “Không Tạo Tác”, âm thanh “Không Sinh Khởi”, âm thanh “Không Diệt Mất”, âm thanh “Tịch Tịnh”, âm thanh “Vắng Lặng”, âm thanh “An Tịnh”, âm thanh “Đại Từ”, âm thanh “Đại Bi”.
Trong mười phương, những cõi không có Phật ấy đều được chiếu sáng bởi ánh sáng đó. Ở đó, bất kỳ chúng sinh nào, hoặc là người hay không phải người, có chúng sinh giống như Diêm La, có chúng sinh giống như nước, có chúng sinh giống như đỉnh núi, có chúng sinh giống như Phạm Thiên, có chúng sinh giống như Thiên Đế Śakra, có chúng sinh giống như hoa, có chúng sinh giống như Kim Sí Điểu, có chúng sinh giống như sư tử, có chúng sinh giống như mặt trời, có chúng sinh giống như mặt trăng, có chúng sinh giống như sao, có chúng sinh giống như kền kền, hoặc chúng sinh giống như thân chó rừng — tất cả đều hiện ra. Với tâm ý hướng về phía thiện, những chúng sinh ấy an tọa để nghe pháp. Họ xuất hiện với hình thể như vậy.
Và này thiện nam tử, chúng sinh ở đó thấy thân mình có hình tướng như vậy. Và họ cũng thấy thân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai có hình tướng như vậy.
Và này thiện nam tử, vị Bà-la-môn tên là Samudrareṇu - Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, vị đại thần tư tế tối cao, trông thấy đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai ngồi trước mặt mình, trên đoá sen padma ngàn cánh, nhụy bằng bảy báu.
Và tất cả chúng sinh ở đây, này thiện nam tử, dù đang ngồi, đứng, ở trên đất hay ở giữa hư không, mỗi một chúng sinh đều thấy đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai như thế này:
“Trước mặt ta là đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đang ngồi” — tất cả đều chuyên tâm hướng về đức Như Lai. Và “Ngài đang thuyết pháp chỉ riêng cho ta.”
Ví dụ hoa sen puṇḍarīka
Và này thiện nam tử, đức đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đã ban lời tán thán đến vị Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử rằng:
“Lành thay, lành thay, thưa cha Đại Bi Mahā-kāruṇika, thưa cha Đại Bà-la-môn, đối với những chúng sinh vượt ngoài sự tính đếm, cha là bậc làm lợi ích bằng lòng bi mẫn, là người tạo ra ánh sáng và hiện ra trong thế gian.
Ví như, thưa cha Bà-la-môn, một cánh đồng hoa tốt tươi với nhiều màu sắc khác nhau, nhiều hương thơm khác nhau, nhiều sự xúc chạm khác nhau, nhiều cánh hoa khác nhau, nhiều cuống hoa khác nhau, nhiều gốc khác nhau, nhiều nơi chứa các loại dược liệu khác nhau.
Có những hoa ở đó tỏa sáng và nở rộ rực rỡ về kích thước, màu sắc, và hương thơm trong phạm vi 100 yojana (12.000km). Có hoa tỏa rực trong phạm vi 200 yojana (24.000km), có hoa trong 300 yojana (36.000km), cho đến có hoa tỏa rực rỡ và hương thơm lan khắp toàn thể thế giới hành tinh gồm đủ bốn châu. Những chúng sinh ở đó thiếu mắt, khi ngửi hương hoa liền được phục hồi đôi mắt. Người điếc phục hồi thính giác; cho đến những ai thiếu mất toàn thân liền phục hồi đầy đủ các chi phần thân thể. Những chúng sinh ở đó mắc phải 400 thứ bệnh, khi ngửi hương ấy liền thoát khỏi tất cả bệnh tật. Những chúng sinh ở đó đang say, cuồng loạn, cực độ mê loạn, tâm ngủ mê, tâm tán loạn, hay mất trí nhớ, khi ngửi hương của những đoá hoa, tất cả liền khôi phục được trí nhớ.
Và như vậy, ở giữa cánh đồng hoa, mọc lên một đoá sen puṇḍarīka, có lõi chắc bền, làm bằng kim cương, cuống bằng lưu ly, trăm cánh mềm mại, cánh hoa vàng, nhụy đỏ như hoa kiṃśuka, và tỏa ra tua như ngọc đỏ, cao 84.000 yojana, rộng 100.000 yojana. Và đóa sen puṇḍarīka ấy rực sáng, tỏa hương và màu sắc khắp các thế giới trong mười phương nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật.
Và này Bà-la-môn, những chúng sinh trong các thế giới ở mười phương, nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, có thân thể với các đại không điều hoà, bị bệnh tật quấy nhiễu, hoặc mất chi thân thể, hoặc say cuồng, hoặc mất trí nhớ do mê ngủ, tâm tán loạn, thì khi thấy ánh sáng của đóa sen puṇḍarīka ấy và ngửi hương của nó, mọi bệnh tật đều được tiêu trừ và trí nhớ được phục hồi.
Những chúng sinh trong các cõi Phật ấy, đã chết và mới mất, thân thể chưa bị hư hoại, thì từ nơi tử thi ấy, các tia sáng của đóa sen puṇḍarīka ấy rơi xuống hoặc chạm đến bằng hương thơm, các tử thi ấy liền phục hồi mạng căn, và lại đứng dậy, trông thấy bạn bè và quyến thuộc. Tất cả họ vào khu vườn, được đầy đủ năm món dục lạc, an vui dạo chơi. Và khi họ từ đó mạng chung, liền sinh vào hai cõi trời Phạm thiên. Những ai ở đó trụ lâu sẽ có thọ mạng không ngắn, và khi mạng chung từ nơi ấy, sẽ không sinh lại ở chỗ khác.
Thưa cha Bà-la-môn, như cánh đồng hoa kia, cũng vậy, là hội chúng Đại thừa này nên được quán thấy. Như khi mặt trời mọc, những hoa ấy khi ánh sáng tới gần thì nở rộng ra, khai mở tròn đầy, tỏa sáng, rực rỡ, có loài cao 100 yojana, có loài cao đến 1.000 yojana, khiến nhiều bệnh tật của vô số chúng sinh được tiêu trừ.
Cũng như vậy, thưa cha Bà-la-môn, đức Như Lai chính là Mặt trời Phật Toàn Giác đã xuất hiện ở đời.
Như những hoa ấy, nhờ ánh sáng của mặt trời mới mọc, nở rộ, tỏa sáng, rực rỡ, khiến bệnh tật của những chúng sinh bị nhiều chứng bệnh được tiêu trừ. Cũng như vậy, thưa cha Bà-la-môn, con xuất hiện trong thế gian, che chở chúng sinh bằng ánh sáng của lòng từ bi, làm cho họ khai mở, rồi khiến họ tham gia vào ba loại tạo phước. Còn do cha, mà vô lượng vô số chúng sinh đã được đưa vào, đặt vào, an lập nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và đã được dẫn đến trước Như Lai con.
Và những chúng sinh ấy), tại chỗ Con, đã lập các nguyện riêng và đã chọn các cõi Phật. Có những cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh được chọn, và có những cõi không thanh tịnh. Và Con đã thọ ký như vậy.
Những thiện nam tử đã chọn cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh từ nơi Con, thì sẽ nhiếp thọ các chúng sinh có tâm thanh tịnh, dễ giáo hóa, thiện căn chưa bị cắt đứt, và là bậc có khả năng được giáo hóa.
Những vị ấy không được gọi là chúng sinh tỉnh thức thuộc hàng Đại Bồ Tát, không thực hành các công hạnh của bậc Đại Nhân, cũng không khởi tâm đại bi và các tâm phụ thuộc tâm đại bi ấy. Và họ cũng không cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác vì lợi ích từ bi cho tất cả chúng sinh.
Những vị nào chọn cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh mà xả bỏ lòng bi mẫn, thì họ chỉ được là Bồ Tát, là vị chúng sinh tỉnh thức.
Những ai mong cầu cõi Phật hoàn toàn không có hàng Thanh Văn và Độc Giác Phật, thì họ không phải là Bồ Tát có trí thiện xảo.
Những ai phát nguyện như thế, rằng: “Chúng ta sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tại cõi Phật không có hàng Thanh Văn và Độc Giác Phật, không có người thuộc các tập hội ác, những người phụ nữ phải chịu cảnh sinh sản làm mẹ, bị nhiếp bởi căn bản bất thiện, và cũng không có địa ngục, súc sinh, cõi âm Diêm-ma”, và “Ta sẽ thuyết pháp Đại thừa thanh tịnh, không dành cho hàng Thanh Văn và Độc Giác Phật, mà chỉ cho các Bồ Tát đã khởi hành trên cỗ xe Đại thừa”, và “Sau khi chứng Tỉnh thức, Ta sẽ có thọ mạng lâu dài, trụ lâu, trong nhiều kiếp, thuyết pháp cho những người có tâm thanh tịnh, dễ giáo hóa, và đã được nhiếp bởi thiện căn”, thì những vị ấy không sinh khởi từ trí thiện xảo, nên không được gọi là Đại Bồ Tát mahāsattvā.
Và này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai duỗi cánh tay, từ năm ngón tay phóng ra những tia sáng có nhiều màu sắc, vô số màu sắc, và hàng trăm ngàn màu sắc khác nhau.
Những tia sáng ấy, vô lượng vô số, đi đến các cõi Phật ở phương Đông, và chiếu sáng chúng. Ở đó có một thế giới tên là Aṅguṣṭhā - Ngón Cái. Và tại thế giới Aṅguṣṭhā có loài người sống 10 năm thọ mạng, da xấu, tính hay thù ghét, tâm thường tập trung vào căn bản bất thiện, và chiều cao chỉ bằng một ngón tay.
Tại đó có đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, hiệu là Jyotīrasa - Ánh Sáng Tinh Hoa. Đối với những người thuộc thời kỳ đen tối, không có chánh pháp, thì đức Như Lai ấy chỉ cao bằng một cánh tay cộng với một bàn tay nâng lên. Còn đối với những người có thân hình cao bằng một ngón tay cái, thì Ngài cao bằng bảy ngón tay. Đức Như Lai ấy đang trụ trì, giữ gìn, giáo hóa, và thuyết pháp cho bốn hội chúng bằng ba thừa.
Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, cả cõi Phật ấy, những người ở đó, đều được thấy đức Như Lai ấy, và toàn thể hội chúng ở thế giới Aṅguṣṭhā.
Đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, nói: Đức Như Lai Jyotīrasa - Ánh Sáng Tinh Hoa ấy, từ vô lượng vô số kiếp về trước, đã lần đầu tiên phát khởi tâm hướng tới Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở trước đức Thế Tôn Ratnacchatra-Abhyudgata-Āvabhāsa - Lọng Ngọc Quý Vượt Lên Chiếu Ánh Sáng Rực Rỡ Như Lai, và đã an lập, đặt vào, dẫn vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ chúng sinh, theo sở nguyện của chúng sinh, mà đã phát nguyện trước vị Như Lai ấy. Có người chọn các cõi Phật được trang nghiêm hoàn toàn thanh tịnh, có người chọn cõi không thanh tịnh bị năm thứ cấu uế bao trùm.
Và ở đó, do vị Đại Bồ Tát ấy, Con đã được dẫn vào và đặt vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và ở đó, trước đức Thế Tôn Lọng Ngọc Quý Vượt Lên Chiếu Ánh Sáng Rực Rỡ Như Lai, Con đã phát nguyện trang nghiêm công đức cõi Phật trong cảnh giới có năm thứ cấu uế để đạt Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và đức Như Lai ấy đã tán thán Con, và đã thọ ký cho Con chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vị ấy, là người đã dẫn dắt chúng con vào con đường Tỉnh Thức, là thiện tri thức, bậc thiện nhân chân thật, đã chọn một cõi Phật đầy ô trược trong thời kỳ đen tối không có chánh pháp, nơi đầy dẫy năm thứ cấu uế dữ dội.
Ngài đã nhận lãnh những chúng sinh có tội vô gián, tâm thường trú vào căn bản bất thiện, dòng tâm bị thiêu đốt, đang ở giữa cảnh hiểm nguy của rừng sinh tử và hoang địa khổ đau, những người đang phải chịu trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, làm đối tượng nguyện độ.
Đối với vị thiện nam tử ấy, các đức Phật Thế Tôn đang trụ trì và giáo hóa ở vô lượng vô số thế giới trong mười phương, đã ban lời tán thán và gửi đi những thông điệp. Ngài được đặt tên là “Mahākaruṇā-Vairocana-Saumya”- Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Đại Bi Hiền Hoà.
Và vị Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Đại Bi Hiền Hoà ấy, là một vị chúng sinh tỉnh thức, là một vị Đại Bồ Tát, là vị thiện tri thức và bậc làm lợi ích cho chúng con, hôm nay vừa mới chứng Chánh Đẳng Giác trong thế giới Aṅguṣṭhavatī, giữa những con người có thân hình chỉ bằng một ngón tay cái. Đối với những người cao bằng ngón tay cái ấy, Ngài có thân bằng một gang tay và đã chuyển bánh xe chánh pháp chân chánh cho dân chúng sống thọ 10 năm. Đối với vị Đại Bồ Tát đã chứng Tỉnh Thức ấy, các đức Phật Thế Tôn đang trụ và giáo hóa trong vô lượng vô số thế giới mười phương đã gửi các sứ giả đến để cúng dường.
Những chúng sinh lần đầu tiên được Ngài dẫn nhập, đặt vào và an lập nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; những chúng sinh đã được Ngài dẫn nhập, đặt vào và an lập từ bố thí ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia cho đến tuệ giác ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia; hiện này đã thành vô lượng vô biên các đức Phật Thế Tôn khắp mười phương. Những đức Phật Thế Tôn ấy, nhớ nghĩ đến công đức trước kia của vị Như Lai này, đã gửi hoa đến cúng dường.
Hãy xem, thưa cha Bà-la-môn, những đức Phật Thế Tôn ấy ở tất cả các cõi Phật, với thọ mạng dài lâu, đang làm Phật sự cho những chúng sinh có tâm hoàn toàn thanh tịnh và sống an vui. Và chính đức Thế Tôn Ánh Sáng Tinh Hoa Như Lai ấy đã chứng quả vị Phật Toàn Giác ở một cõi Phật bị lôi kéo xuống bởi năm thứ cấu uế. Ngài đã làm Phật sự to lớn hơn nhiều trong một đời sống ngắn ngủi cho những chúng sinh phạm tội vô gián và trú vào căn bản bất thiện, không bỏ qua việc thuyết pháp cho hàng Thanh Văn và Độc Giác Phật.
Cũng như vậy, thưa cha Bà-la-môn, cha đã vượt trội hơn tất cả hội chúng Bồ Tát mà phát khởi một nguyện hạnh ưu việt hơn. Cha đã nhận lãnh những chúng sinh ở cõi Phật bị lôi nhấn chìm trong thời hiện tại đầy năm thứ cấu uế, hành nghiệp vô gián và trú vào căn bản bất thiện.
Còn những vị Đại Bồ Tát đã chọn các cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, không có Thanh Văn và Độc Giác Phật, tiếp nhận những chúng sinh có tâm thanh tịnh, đã được thuần phục, nhưng thiện căn không bị cắt đứt, vẫn còn nguyên vẹn— thì những chúng sinh ấy được gọi là “giống như hoa”.
Nhưng họ không phải là những Đại Bồ Tát được ví như hoa sen puṇḍarīka — vì họ là những vị sẽ làm Phật sự giữa những chúng sinh đã thuần phục, nhưng thiện căn không bị cắt đứt, vẫn còn nguyên vẹn.
Bốn pháp làm một vị chúng sinh tỉnh thức, một vị Bồ Tát rơi vào tình trạng trì trệ, không tiến triển
Thưa cha Bà-la-môn, có Bốn pháp làm một vị chúng sinh tỉnh thức, một vị Bồ Tát rơi vào tình trạng trì trệ, không tiến triển.
Bốn tình trạng ấy là gì?
Nguyện ở nơi cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh.
Nguyện làm Phật sự cho những chúng sinh có tâm hoàn toàn thanh tịnh.
Nguyện không thuyết pháp về các câu chuyện của Thanh Văn thừa và Độc Giác Phật thừa khi đã chứng Tỉnh Thức.
Nguyện sống thọ lâu dài khi đã chứng Tỉnh Thức.
Bốn điều này là những tình trạng trì trệ, không tiến triển của Bồ Tát.
Bởi lý do này, những Bồ Tát ấy được gọi là “giống như hoa”, chứ không phải là “giống như hoa sen puṇḍarīka”, và không được gọi là Đại Bồ Tát.
Bốn pháp làm một vị chúng sinh tỉnh thức phát khởi tinh tấn trở thành một vị Đại Bồ Tát
Ví như, thưa cha Bà-la-môn, bỏ qua hội chúng Đại Bồ Tát này, thì chỉ có các thiện nam tử trong đại kiếp Hiền Thiện, chọn cõi Phật không thanh tịnh và thâu nhận những chúng sinh đầy phiền não có thể giáo hóa.
Có Bốn pháp làm một vị chúng sinh tỉnh thức phát khởi tinh tấn trở thành một vị Đại Bồ Tát.
Bốn pháp ấy là gì?
Nguyện ở nơi cõi Phật không thanh tịnh.
Nguyện làm Phật sự cho những chúng sinh có tâm không thanh tịnh.
Nguyện thuyết pháp Thanh Văn thừa và Độc Giác Phật thừa khi đã chứng Tỉnh Thức.
Nguyện sống theo con đường trung đạo (madhyamā pratipadā) khi đã chứng Tỉnh Thức, không quá dài lâu, cũng không quá ngắn ngủi.
Bốn điều này là Bốn pháp làm một vị chúng sinh tỉnh thức phát khởi tinh tấn trở thành một vị Đại Bồ Tát.
Bởi lý do này, những Bồ Tát ấy được gọi là “giống như hoa sen puṇḍarīka”, chứ không phải “giống như hoa”, và được gọi là Đại Bồ Tát - mahāsattvā.
Ví như, thưa cha Bà-la-môn, ngay lúc này, giữa vô lượng vô số các vị Bồ Tát, ở trước đức Như Lai đã phát sinh hoa sen đại bi karuṇā-puṇḍarīka với hạnh nguyện đặc biệt.
Vì cha đã thâu nhận những chúng sinh phạm tội vô gián cho đến những kẻ an trụ trong căn bản bất thiện, và đã chọn một cõi Phật đầy năm thứ cấu uế mãnh liệt.
Bằng lời tuyên ngôn đại bi, thưa bậc thiện nhân, cha đã được các đức Phật Thế Tôn ở mười phương, trong vô số cõi Phật với số lượng nhiều như bụi hạt hạ lượng tử của cõi Phật, ban lời tán thán và gửi sứ giả, lại còn đặt tên cho cha là “Đại Bi” - Mahākāruṇika. Và toàn thể hội chúng này đều đang phát tâm làm lễ cúng dường cho chính cha.
Thọ ký cho Bồ Tát Đại Bi mahākāruṇika thành Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác
Thưa cha, Đại Bi mahākāruṇika, trong tương lai, khi đã trải qua 1 a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ nhất, còn sót lại một phần nhỏ của a-sam-khê Hằng Hà Sa số kiếp thứ hai, khi ấy, cõi Phật này đổi tên thành Saha -Ta-Bà - Đồng Hành Đi Chung, trong đại kiếp Hiền Thiện, giữa dân chúng có tuổi thọ 120 năm.
Trong một cõi Phật đầy dẫy sự già và chết, ở thế giới mù lòa, không có người dẫn đường, những chúng sinh an trụ trong căn bản bất thiện và đang bị tổn hại trên đường tà. Những chúng sinh rơi vào hoạn nạn lớn, phạm tội vô gián, phỉ báng bậc Thánh, khước từ chánh pháp, mắc phải tội căn bản, tất cả như đã nói ở trên.
Trong một thế giới đầy ắp các tệ nạn, cha sẽ thành một đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Cha sẽ chuyển xoay bánh xe luân hồi, vận chuyển bánh xe chánh pháp, và chế ngự các ma chướng: là ma phiền não (kleśa-māraḥ) và ma làm chủ sự sai khiến, khiến chính mình bị chi phối (vaśavarti-māraḥ), làm vang dội âm thanh khắp vô lượng vô biên cõi Phật ở mười phương.
Hội chúng đại Thanh Văn của cha, sẽ gồm 1.250 vị Tỳ kheo. Trong 45 năm, tuần tự, cha sẽ làm viên mãn toàn bộ Phật sự như nguyện đã lập.
Như vào thời đó, đức Phật tên là Rājāmṛtaśuddha Amitāyus - A Di Đà - Vị Vua Bất Tử Hoàn Toàn Thanh Tịnh Vô Lượng Thọ Như Lai sẽ làm toàn bộ Phật sự trong vô lượng kiếp.
Cũng như vậy, thưa cha Đại Bi, ở cõi Phật Saha đó, trong đại kiếp Hiền Thiện, giữa dân chúng sống 120 năm, cha sẽ trong 45 năm thực hiện toàn bộ Phật sự lớn như vậy, và sẽ thành đức Thế Tôn hiệu là śākyamuni - Thích Ca Mâu Ni - Bậc Thánh Tĩnh Lặng Dòng Họ śākya Như Lai.
Sau khi cha nhập Niết-bàn vô thượng, chánh pháp sẽ còn tồn tại thêm 1.000 năm. Và khi chánh pháp ẩn mất, xá-lợi của cha, thưa bậc thiện nhân, ở trong thân xá-lợi cũng sẽ thực hiện Phật sự như vậy. Như chính cha đã lập nguyện, cha sẽ giáo hóa chúng sinh lâu dài, như đã nói ở trên.
Lời nguyện đi theo cùng Bồ Tát Đại Bi
Vào thời ấy, ở thành Kaitapura có một vị Bà-la-môn cư trú. Sau khi vừa nghe được lời thọ ký cho Bà-la-môn Đại Dương Hạt Hạ Lượng Tử, vị ấy liền nói rằng:
Trong những kiếp vô lượng vô số ấy, khi Ngài đang thực hành lối sống Bồ Tát, tôi sẽ thường xuyên làm người phụng sự, là người giúp đỡ thuận hợp với tình bạn chân thành và phương tiện trợ giúp, để phụng sự Ngài. Khi Ngài ở đời cuối cùng, tôi sẽ làm cha của Ngài. Và khi Ngài đã thành tựu Tỉnh Thức, tôi sẽ là vị thí chủ tối cao của Ngài. Và Ngài cũng hãy thọ ký cho tôi sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại có một vị nữ thần đại dương (samudra-devatā) tên là Vinītabuddhi - Tâm Thức Đã Được Điều Phục, ở đó. Vị ấy cũng nói:
Trong những đời sống cho đến khi Ngài ở đời cuối cùng, tôi sẽ làm mẹ sinh thành của Ngài. Và khi Ngài, thưa Bồ Tát Đại Bi, đã thành tựu Tỉnh Thức, xin hãy thọ ký cho tôi sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vị thiên nữ Varuṇacāritranakṣatrā - Ngôi Sao Chủ Hành Tinh Nước cũng nói rằng:
Trong những đời sống cho đến khi Ngài ở đời cuối cùng, tôi sẽ là mẹ nuôi dưỡng bằng sữa của Ngài. Và khi Ngài đã thành tựu Tỉnh Thức, xin hãy thọ ký cho tôi sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thiên Đế Śakra tên là Sanema và một vị khác tên là Pāracintī, cả hai cũng nói rằng:
Chúng tôi, thưa bậc Đại Bi, trong những đời ấy, và khi Ngài đã thành tựu Tỉnh Thức, chúng tôi sẽ là cặp đệ tử Thanh Văn, một người đầy tuệ giác prajñā và một người có thần thông của Ngài.
Lại có một vị Thiên Đế Śakra tên là Cāritracaraṇasudarśayūthika - Người Đứng Đầu Hội Chúng Có Phẩm Hạnh Và Bước Đi Đẹp Đẽ, vị ấy liền nói:
Tôi, thưa bậc Đại Bi, trong những đời ấy cho đến khi Ngài ở đời cuối cùng, sẽ là con trai của Ngài.
Lại có một vị nữ thần núi tên là Saurabhyākiṃśukā - Hoa kiṃśukā Hương Thơm Ngát, vị ấy cũng nói:
Tôi, thưa bậc Đại Bi, trong những đời sống tái sinh ấy, sẽ là vợ của Ngài.
Và khi Ngài đã thành tựu Tỉnh Thức, xin hãy thọ ký cho tôi sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vị vua A-tu-la tên là Kaduścara, cũng nói:
Tôi, thưa bậc Đại Bi, trong những kiếp vô lượng vô số ấy, khi Ngài đang thực hành lối sống Bồ Tát, tôi sẽ làm người giúp đỡ thuận hợp với tình bạn chân thành và phương tiện trợ giúp, ở địa vị người hầu, và khi Ngài ở đời cuối cùng, tôi sẽ là người phụng sự của Ngài.
Và khi Ngài đã thành tựu Tỉnh Thức, tôi sẽ học tập việc chuyển bánh xe pháp chân chánh. Tôi cũng sẽ làm cho lần thuyết pháp đầu tiên của Ngài được thành tựu. Tôi cũng sẽ uống vị ngọt của chánh pháp. Và tôi sẽ đến với thuốc bất tử. Cho đến khi diệt trừ tất cả phiền não, tôi sẽ đạt được quả vị A La Hán.
Và cũng có vô số như số cát sông Hằng, các vị trời, rồng và A-tu-la ở đó đã phát nguyện để tùy thuận hạnh nguyện của vị Bồ Tát Đại Bi, và đã nhận những chúng sinh đáng được hóa độ.
Và có một vị sống bằng nghề nghiệp và phương tiện mưu sinh tên là Saṃjñāvikaraṇabhīṣma - Sự Hỗn Loạn Khủng Khiếp Do Các Tưởng Tượng Gây Ra. Vị ấy nói rằng:
Tôi, thưa Đại Bà-la-môn, sẽ là người trợ giúp với nhiều phương tiện. Tôi luôn luôn trong những kiếp vô lượng sẽ là người thân hữu sống nhờ vào hạnh đi đem lại kết quả lợi ích.
Và tôi cũng sẽ thường xuyên đến gần chỗ Ngài để cầu xin vật dụng. Tôi sẽ xin giường nằm, chỗ ngồi, xe cộ, voi, ngựa, xe ngựa, làng mạc, chợ, thành phố, con trai, con gái, thịt, máu, da, xương, tay, chân, lưỡi, tai, mũi, mắt và đầu của Ngài. Tôi sẽ là người trợ giúp lối sống bố thí ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia của Ngài, thưa Đại Bà-la-môn. Cho đến khi tôi cũng là người trợ giúp lối sống tuệ giác ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia của Ngài.
Tôi sẽ là người trợ giúp Ngài — thưa Đại Bà-la-môn — khi Ngài đang thực hành lối sống Tỉnh Thức (bodhi-cārikā) trong sáu pháp ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia.
Cho đến khi Ngài thành tựu Tỉnh Thức, tôi sẽ đạt được địa vị Thanh Văn.
Tôi sẽ thọ trì 80.000 pháp uẩn. Và tôi sẽ là vị giảng pháp ở phía sau Ngài. Và Ngài cũng hãy thọ ký cho tôi thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nghe như vậy, này thiện nam tử, vị Đại Bi Bà-la-môn ấy đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai với năm phần thân thể sát đất.
Khiến vị sống bằng nghề nghiệp và phương tiện mưu sinh tên Saṃjñāvikaraṇabhīṣma - Sự Hỗn Loạn Khủng Khiếp Do Các Tưởng Tượng Gây Ra ấy chú ý, và Ngài nói như sau:
Lành thay, lành thay, này thiện nam tử, vì ông sẽ là người trợ giúp của Ta trong lối sống tối thượng. Cho đến khi ông trong vô lượng vô số đời và trải qua hàng triệu tỷ tỷ kiếp đến gần ta để xin vật dụng. Khi ấy ta sẽ với tâm hoan hỷ mà cho. Nguyện cho ông đừng là người chịu quả báo bất thiện.
Lại nữa, này thiện nam tử, vị Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát ở trước đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai thưa rằng:
Nếu đối với cha, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, trong những vô lượng vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ a-sam-khê kiếp, khi cha đang thực hành lối sống hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nếu những người đứng trước mặt cha, xin thức ăn — hoặc bằng lời nói dịu dàng, hoặc bằng lời nói thẳng thắn của đàn ông, hoặc bằng lời nói mỉa mai khinh miệt, hoặc bằng lời nói rõ ràng ra lệnh — mà xin, nếu cha, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, đối trước người xin mà khởi lên một niệm sân hận, hoặc khởi tâm không hoan hỷ, hoặc bố thí với tâm mong cầu quả báo của sự bố thí, thì các đức Phật Thế Tôn đang trụ trì, giữ gìn, đang duy trì và thuyết pháp trong vô lượng vô số thế giới ở mười phương sẽ trở nên không còn giữ lời đối với cha. Và cha chớ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nếu cha, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, bố thí với tâm hoan hỷ đối với người xin, thì ngay cả sự nhận của người thọ bố thí mà còn bị các pháp bất thiện làm chướng ngại đối với lòng tin và vật cúng dường, dù chỉ trong mức độ bằng một phần chục triệu của cọng lông, thì cha sẽ trở nên thất hứa với các các đức Phật Thế Tôn.
Nếu điều này — dù chỉ bằng một phần chục triệu của cọng lông — gây ra chướng ngại đối với các pháp lành của người thọ nhận, thì cha cũng sẽ sinh vào địa ngục Vô Gián avīci.
Như đối với thức ăn, cũng vậy đối với y phục. Cho đến khi những người xin đến với cha để xin đầu — dù bằng lời dịu dàng, lời thô, lời khinh miệt hay lời ra lệnh, nếu cha, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, khởi một niệm sân hận hay tâm không hoan hỷ đối với người xin, hoặc bỏ đi đầu mình với tâm mong cầu quả báo của sự bố thí, thì các đức Phật Thế Tôn sẽ không còn giữ lời với cha, và cha cũng sẽ sinh vào địa ngục Vô Gián avīci.
Như đối với bố thí, cũng vậy, với giữ giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, các hạnh xả bỏ, xuất gia, cho đến khi thực hành lối sống tuệ giác prajñā cũng sẽ đều giống như vậy. Khi những người xin đến với cha để xin vật dụng — dù bằng lời dịu dàng, lời thô, lời khinh miệt hay lời ra lệnh, nếu cha, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, khởi một niệm sân hận hay tâm không hoan hỷ đối với người xin, hoặc bỏ đi vật dụng của mình với tâm mong cầu quả báo của sự bố thí, thì các đức Phật Thế Tôn sẽ không còn giữ lời với cha, và cha cũng sẽ sinh vào địa ngục Vô Gián avīci.
Và này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đã ban lời tán thán đối với vị Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát như sau:
Lành thay, lành thay, thưa bậc thiện nhân! Với tâm an trú trong đại bi, cha đã phát nguyện này.”
Và này thiện nam tử, toàn thể đại hội cùng với chư Thiên, Càn-thát-bà, loài ngườ và A-tu-la trong thế giới, đều chắp tay đứng mà tán thán rằng:
“Lành thay, lành thay, thưa bậc thiện nhân! Với tâm an trú trong đại bi, ông đã phát nguyện này; và ông cũng sẽ khiến cho chúng sinh được đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia.”
Và này thiện nam tử, như vị Bồ Tát sống bằng nghề nghiệp và phương tiện mưu sinh tên là Saṃjñāvikaraṇabhīṣma - Sự Hỗn Loạn Khủng Khiếp Do Các Tưởng Tượng Gây Ra đã phát nguyện với hạnh thọ nhận bố thí, cũng như vậy, đã có 48.000 chúng sinh phát nguyện như vậy.
Và này thiện nam tử, vị Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát, nghe những lời phát nguyện như thế từ nơi 48.000 chúng sinh, cùng với lời phát nguyện của Saṃjñāvikārabhīṣma - Sự Hỗn Loạn Khủng Khiếp Do Các Tưởng Tượng Gây Ra. Bấy giờ, vị Bồ Tát Đại Bi, khởi tâm hoan hỷ và an vui tột bậc, chắp tay đứng, nhìn khắp đại hội Sarvāvatī lúc ấy, với tâm hoan hỷ tột bậc mà nói rằng:
Ôi thật kỳ diệu thay! Ta sẽ vào thời kỳ suy tàn của chánh pháp, trong chiến trường của đại phiền não, nơi thời kỳ đen tối, không có chánh pháp đầy đủ năm thứ ô trược, ở thế gian không có người dẫn dắt, Ta sẽ làm vị trưởng đoàn thương buôn, người đem ánh sáng, người thắp đèn, và là người chỉ đường cho những ai không nơi nương tựa, cho những người mù. Nơi nào mà ngay khi lần đầu tiên khởi tâm trong hạnh tu với lối sống Tỉnh Thức Tối Thượng, ta đã có được những vị trợ giúp như thế, là những người trong các đời sau sẽ thọ nhận đầu của ta, cho đến thọ nhận thức ăn từ nơi ta.
Lại nữa, này thiện nam tử, vị Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát ấy, ngồi trước đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, và nói rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, trong vô lượng vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ kiếp, ở các đời sau, những người xin đến gần, cho đến khi thọ nhận đầu và tất cả các vật bố thí của cha, cho đến tận khi đạt đạo quả Tỉnh Thức, nếu cha, khi chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà không hoàn toàn giải thoát những chúng sinh ấy khỏi luân hồi, không giúp họ chấm dứt trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, và cũng không thọ ký cho họ bằng Thanh văn thừa, hoặc Độc Giác Phật thừa, hoặc Đại thừa, thì các đức Phật Thế Tôn hiện đang ở mười phương sẽ trở nên thất hứa với cha, và cha cũng sẽ không thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại nữa, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đã ban lời tán thán đối với vị Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát rằng:
Lành thay, lành thay, thưa bậc thiện nhân! Nguyện hạnh tu tập lối sống Tỉnh Thức của cha thật là như vậy. Giống như Bồ Tát Meruśikhariṃdhara - Bậc Nâng Đỡ Đỉnh Núi Meru, thuở trước, khi lần đầu tiên khởi tâm, đã phát nguyện với lối sống Bồ Tát như vậy trước đức Thế Tôn Lokeśvarajyotis - Thế Gian Thiên Quang Như Lai. Lối sống Bồ Tát như vậy đã được thực hành đúng như lời nguyện đã phát.
Số đại kiếp trôi qua nhiều bằng số cát của sông Hằng. Như bậc thiện nhân ấy, ở phương Đông, trong thế giới tên là Jvālapratisaṃkhyā - Ngọn Lửa Trí Tuệ Đoạn Trừ, thuộc về 1.000 tỷ cõi Phật, với con người ở đó có tuổi thọ 100 năm, đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ngài ấy đã trở thành đức Thế Tôn có danh hiệu là Jñānakusumavirajasamucchrayabodhīśvara - Chủ Nhân Tỉnh Thức Vươn Lên Hoa Trí Tuệ Không Bị Ô Nhiễm Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác. Ngài đã làm Phật sự trong 45 năm, rồi nhập vào cảnh giới Niết-bàn hoàn toàn không còn dư y.
Thưa cha Đại Bi, khi đức Thế Tôn Chủ Nhân Tỉnh Thức Vươn Lên Hoa Trí Tuệ Không Bị Ô Nhiễm Như Lai đã nhập diệt, thì giáo pháp chân chính tồn tại trong thời kỳ dẫn đạo là 1.000 năm. Khi chánh pháp đã diệt mất, thì giáo pháp tương tợ chánh pháp tồn tại thêm 1.000 năm nữa.
Thưa cha Đại Bi, những ai trong thời kỳ dẫn đạo của chánh pháp, hoặc trong thời giáo pháp tương tợ chánh pháp, là Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni có giới hạnh xấu ác, hành vi phi pháp, nhận của cải phi pháp mà không hổ thẹn, hay liên kết với việc chấm dứt sự cúng dường Chánh Pháp mà không biết hổ thẹn, hoặc đối với Tăng chúng ở bốn phương hoặc Tăng chúng hiện diện, đã chiếm đoạt y phục, thức ăn khất thực, giường nằm, chỗ ngồi, dược phẩm chữa bệnh, đem về chiếm giữ riêng, hoặc tự mình tiêu dùng những vật mà các gia chủ đã cúng dường, thì tất cả đều đã được đức Thế Tôn Chủ Nhân Tỉnh Thức Vươn Lên Hoa Trí Tuệ Không Bị Ô Nhiễm Như Lai thọ ký một cách tuần tự bằng cả ba thừa.
Những ai trong giáo pháp của đức Thế Tôn ấy khoác y ca-sa đỏ, tất cả đều được thọ ký là bậc bất thoái chuyển trong cả ba thừa.
Những ai phạm trọng tội, dù là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam cư sĩ hay nữ cư sĩ, thì từ trước đã được thấy hoặc nghe danh của đức Như Lai ấy, nhờ quả báo của căn lành với tưởng niệm bậc Đạo sư, đều thọ ký bất thoái chuyển trong cả ba thừa.
Lại nữa, này thiện nam tử, vị Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát ấy, sau khi nghe lời kể này, đã ở trước đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, và nói rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, chính là nguyện này của cha, rằng trong khi còn tu hành lối sống Tỉnh Thức Tối Thượng, bất cứ những chúng sinh nào mà cha có thể khuyến khích, khiến phát tâm, và an trụ vào bố thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia, cho đến an trụ vào Tuệ Giác Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia, dù chỉ là một chút căn lành nhỏ bằng mũi kim hay nhỏ bằng đầu một phần mười triệu của sợi tóc, cha cũng sẽ khuyến khích gieo trồng.
Trong suốt thời gian tu hành cho đến khi thành Tỉnh Thức, nếu cha không an trụ những chúng sinh ấy vào địa vị bất thoái chuyển trong cả ba thừa, dù chỉ là một chúng sinh, thì xin cho các đức Phật Thế Tôn đang trụ trì, hộ trì, hóa độ và thuyết pháp ở vô lượng vô số cõi Phật trong mười phương xem cha là kẻ dối trá, và nguyện cho cha không chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Và khi cha đã chứng đắc trí tuệ Vô Thượng, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nếu có những chúng sinh trong giáo pháp của cha khoác y cà-sa đỏ, hoặc phạm trọng tội, hoặc rơi vào tà kiến, hoặc lỡ phạm lỗi đối với Tam Bảo, là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam cư sĩ hay nữ cư sĩ, mà dù chỉ trong một sát-na khởi tâm tôn kính đối với cha như một bậc Đạo sư của họ, hoặc khởi tâm tôn kính đối với Pháp hay đối với Tăng, nếu cha không thọ ký cho những chúng sinh ấy, dù chỉ là một người, vào địa vị bất thoái chuyển trong ba thừa, thì xin cho các đức Phật Thế Tôn xem cha là kẻ dối trá và nguyện cho cha không thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Và khi cha đã thành tựu Tỉnh Thức, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, y cà-sa đỏ của cha sẽ được chư Thiên và loài người tôn kính, tôn trọng, xem như bậc thầy và cúng dường, chỉ cần thấy những chúng sinh khoác y cà-sa ấy, thì liền được bất thoái chuyển trong ba thừa.
Những chúng sinh nào chịu khổ vì đói khát, không có đồ ăn uống, hoặc những Dạ-xoa nghèo khổ, hoặc là chúng sinh ở cõi Diêm-ma, mà khởi lòng ước muốn được khoác y cà-sa, dù chỉ một mảnh nhỏ dài bốn ngón tay, thì tất cả những vị ấy sẽ được đầy đủ thức ăn và nước uống, và được mãn nguyện trọn vẹn.
Những chúng sinh thường nhiều mối oán thù và xung đột lẫn nhau, hoặc đang ở trong các cuộc chiến tranh và giao tranh, dù là chư Thiên, Dạ-xoa, La-sát, Rồng, A-tu-la, garuḍā, Kinnara, mahoragā, quỷ kuṃbhāṇḍā, quỷ piśācā hay loài người, khi đang ở trong chiến trận mà nhớ nghĩ đến y cà-sa, thì những chúng sinh ấy sẽ khởi tâm từ bi, tâm nhu hòa, tâm không oán thù, và tâm siêng năng làm điều thiện.
Những chúng sinh ở trong chiến trận, tranh luận, chiến đấu hay cãi vã, nếu mang theo mảnh y cà-sa để làm bùa hộ mệnh, để cúng dường hay để tỏ lòng tôn kính, thì những chúng sinh ấy sẽ luôn luôn không bị đánh bại, không vấp ngã, và không bị tổn hại. Họ sẽ được bình an và thoát ra khỏi chiến trận, cuộc chiến, sự cãi vã hay tranh luận.
Nếu, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, y cà-sa đỏ của cha không đầy đủ năm công đức tối thượng, thì xin cho các đức Phật Thế Tôn trong mười phương xem cha là kẻ dối trá, và nguyện cho cha không đủ sức mạnh để hoàn thành trọn vẹn tất cả Phật sự, nguyện cho chánh pháp của cha bị mất mát, và cha không thể hóa độ những kẻ ngoại đạo.
Và thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, những ai khi cha đã thành Phật Toàn Giác hoặc sau khi đã nhập Niết-bàn, mà lễ lạy, hoặc xưng lời rằng: “Con hoàn toàn quy mạng đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai”, thì tất cả nghiệp chướng của họ sẽ tiêu trừ. Cuối cùng, họ sẽ nhập Niết-bàn, với trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối tối thượng của một đức Phật Toàn Giác.
Và rồi, này thiện nam tử, lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đưa tay phải đặt lên đỉnh đầu của Bồ Tát Đại Bi, và nói rằng:
Lành thay, lành thay, thưa bậc thiện nhân, nguyện của cha thật tốt đẹp và sự suy xét thật cao quý. Quả thật như vậy, y cà-sa đỏ của cha, nhờ năm công đức tối thượng, sẽ là chỗ nương tựa cho chúng sinh.
Và này thiện nam tử, vị Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát ấy, sau khi được thọ ký với sự hoan hỷ tán thán và tâm thanh tịnh, được đức Như Lai dùng bàn tay phải, với các có ngón tay dài phúc đức, phủ lên đỉnh đầu, chạm bằng lòng bàn tay mềm mại như bông non, khi ấy Ngài biến thành như một thanh niên đồng tử, có hình dáng, tướng mạo như người mới hai mươi tuổi.
Lại nữa, này thiện nam tử, toàn thể đại hội gồm chư Thiên, Càn-thát-bà và loài người đều chắp tay, đứng yên, sẵn sàng thực hiện lễ cúng dường lên Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát bằng hoa và âm nhạc, rồi tán thán bằng những bài kệ có sắc thái và âm điệu vi diệu.
Đây là Phẩm thứ tư có tên là “Thọ Ký Bồ Tát”, thuộc Thánh Kinh Đại Thừa Hoa Sen Trắng Puṇḍarīka Đại Bi Thanh Tịnh, đến đây là hoàn tất.
Lời phát nguyện:
sattvānāṃ duḥkha-pramocanārthaṃ praṇidhānaṃ kṛtaṃ tathā te āśā paripūryatu vyākarotu ca bhagavān anuttarāyāṃ samyak-saṃbodhau
Con nguyện lập các nguyện này để vì mục đích giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau. Con nguyện cho những ước nguyện ấy đều được viên mãn, và nguyện cho đức Thế Tôn thọ ký cho con thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
5. dāna-parivarto nāma pañcamaḥ
5. Phẩm Bố Thí
Và này thiện nam tử, vị Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát, dùng năm chi phần thân thể để đảnh lễ dưới chân của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, rồi ngồi xuống trước mặt Ngài, liền thưa hỏi đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai như sau:
Cha được nghe rằng đức Thế Tôn đã chỉ dạy con đường của các Bồ Tát — là bài giảng pháp hướng dẫn cửa vào chánh định, và hướng dẫn cách thanh lọc và thanh tịnh các hành trang cần chuẩn bị khi đi trên con đường Bồ Tát. Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, bài giảng pháp này của Bồ Tát được Ngài dạy gồm bao nhiêu phần?
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, bài giảng pháp hướng dẫn cửa vào chánh định, và hướng dẫn cách thanh lọc và thanh tịnh các hành trang cần chuẩn bị khi đi trên con đường Bồ Tát — phải tích luỹ bao nhiêu phần thì được viên mãn đầy đủ?
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, thiện gia nam tử hay thiện gia nữ tử cần có hành trang với số lượng và hình thức như thế nào để được yên tâm và an trụ vững chắc kiên cố?
Cần có số lượng và hình thức của hành trang ra sao để được trang nghiêm theo đúng hướng dẫn cửa vào chánh định?
Bấy giờ, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, liền bảo vị Bồ Tát Đại Bi rằng:
Lành thay, lành thay, thưa cha Đại Bi, hiền thiện thay, câu hỏi của cha thật khéo, lời nói của cha cũng thật khéo léo.
Thưa cha Đại Bi, chính cha đã khởi lên sự lợi ích và lợi lạc to lớn cho vô lượng Bồ Tát, và Đại Bồ Tát. Bởi vì, thưa cha Đại Bi, cha lại nghĩ đến việc thưa hỏi đức Như Lai câu hỏi như thế này.
Vì vậy, thưa cha Đại Bi, hãy lắng nghe, khéo ghi nhớ, và ghi nhớ thật kỹ.
Các loại chánh định samādhi
Thưa cha Đại Bi, đối với những thiện gia nam tử đã khởi hành trên cỗ xe Đại thừa:
Có một chánh định samādhi tên là Śūraṃgama - Thủ Lăng Nghiêm - Dũng Mãnh Bước Tới, vị Bồ Tát an trụ trong chánh định samādhi này, thì có thể thâm nhập vào tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Ratnamudrā - Ấn Ngọc Quý, vị an trụ trong đó có thể ấn chứng tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Siṃha-vikrīḍita - Sư Tử Đi Dạo Vui Chơi, vị an trụ trong đó có thể tự chủ du hí đi dạo qua lại tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sucandra - Mặt Trăng Hiền Thiện, vị an trụ có thể khiến cho chiếu sáng tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Candra-dhvaja-ketu - Đỉnh CaoNgọn Cờ Mặt Trăng, vị an trụ có thể nắm giữ ngọn cờ của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharmodgata - Đi Vượt Lên Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể đi vào bên trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Vilokita-mudrā - Ấn Nhìn Thấy Hoàn Toàn Kỹ Lưỡng, vị an trụ có thể nhìn xuống kỹ lưỡng ấn đỉnh đầu của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Dharmadhātu-vigata - Đi Lìa Khỏi Pháp Giới, Yếu Tố Nền Tảng Của Pháp, vị Bồ Tát an trụ sẽ đạt đến sự xác quyết, sự phân định rõ ràng, sự thẩm định chân lý Pháp giới, yếu tố nền tảng của tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Niyata-dhvaja-ketu - Ngọn Cờ Ấn Định, Kiên Cố, Chắc Chắn, Bất Thoái, Không Dao Động, vị an trụ có thể nắm giữ ngọn cờ của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Vajra - Kim Cang, vị an trụ có thể phá vỡ, xé rách, xuyên thủng tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Dharma-praveśa-mudrā - Ấn Nhập Vào Chánh Pháp, vị an trụ có thể ấn định, đóng ấn tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Samādhi-rāja-supratiṣṭhita - Bằng Cách An Lập Kiên Cố Vững Chắc Như Vua Chánh Định Samādhi, vị an trụ có thể an lập làm chủ tối thượng trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Raśmi-mukta - bằng cách phóng ra tia sáng, vị an trụ có thể rơi xuống, đổ xuống, tuôn xuống, đi vào các tia sáng, các luồng sáng trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Bala-vīrya - Bằng Sức Mạnh Và Tinh Lực, Với Năng Lực Dũng Mãnh, vị an trụ có thể làm cho phát sinh, khiến thực hiện, thúc đẩy trạng thái sức mạnh và tinh lực trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Samudgata - Bằng Cách Vượt Khỏi Trọn Vẹn, vị an trụ có thể vượt lên trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Nirukti-nirdeśa - Bằng Cách Chỉ Dẫn, Trình Bày, Định Nghĩa Giải Thích Nghĩa Gốc Của Từ Ngữ, vị an trụ có thể đi vào cách diễn đạt, lời nói, phát ngôn của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Adhi-vacana-praveśa - Bằng Cách Nhập Vào Lời Đặt Tên, Tên Gọi Chính Thức, vị an trụ có thể thâm nhập, nhập sâu vào, tiến vào một cách tuần tự các tên gọi, danh xưng của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Dig-viloka - Bằng Cách Nhìn Khắp Mười Phương, vị an trụ có thể nhìn bao quát tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharma-prabheda - Bằng Cách Phân Biệt, Phân Chia, Hiển Thị Các Dạng Sai Biệt Của Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể thâm nhập, nhập sâu vào, tiến vào một cách tuần tự tính phân chia hiển thị sai biệt của tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Dhāraṇī-mudrā - Bằng Ấn Chú Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī, vị an trụ có thể nắm giữ các ấn chú của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharma-vivikta - Bằng Cách Tĩnh Lặng, Biệt Lập, Thuần Tịnh Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể thâm nhập, nhập sâu vào, tiến vào một cách tuần tự pháp tánh có trạng thái tĩnh lặng, biệt lập, thuần tịnh của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Asaṃpramoṣa - Bằng Cách Không Đánh Mất, Bằng Năng Lực Gìn Giữ Liên Tục, vị an trụ có thể không đánh mất, không rơi rớt tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharma-acala - Bằng Cách Bất Động, Không Lay Chuyển Giữa Tất Cả Pháp, vị an trụ có thể an trụ, trụ vững, giữ vững trạng thái bất động trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharma-samavasaraṇa-sāgara-mudrā - Ấn Hội Tụ Về Biển Lớn Của Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể đi vào, quy hướng về, hợp thành nơi hội tụ tổng hợp của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharma-āmanyana - Bằng Cách Triệu Hồi Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể tiến vào trạng thái sinh khởi và diệt tận của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Ākāśa-spharaṇa - Bằng Cách Chạm Vào, Chấn Động Hư Không, vị an trụ có thể làm cho chấn động hư không của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharma-cchedana - Bằng Cách Đoạn Trừ, Cắt Đứt Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể đi vào, đạt đến sự không bị cắt đứt của tất cả chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Vajra-maṇḍala - Bằng Cách Ở Trong Vòng Tròn Kim Cang, vị an trụ có thể duy trì vòng tròn của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharma-eka-rasa - Bằng Cách Làm Duy Nhất Một Vị Với Bản Chất Dòng Chảy Tinh Khiết Trong Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể duy trì bản chất dòng chảy tinh khiết của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Raṇaṃ-jaha - Bằng Cách Từ Bỏ, Xả Bỏ Chiến Đấu, Trận Chiến, Khổ Chiến, vị an trụ có thể từ bỏ, xả bỏ tất cả công cụ phương tiện gây ra phiền não.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharmānutpāda - Bằng Cách Vô Sinh Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể thấy sự không sinh không diệt, trạng thái tịch tĩnh hoàn toàn của tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Vairocana - Bằng Ánh Sáng Mặt Trời Toàn Giác Vairocana, vị an trụ có thể thành tựu, chiếu sáng, nung đốt, thiêu tịnh tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharmānirodha - Bằng Cách Diệt Tận Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể phân tích và phân biệt tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Animiṣa - Bằng Cách Không Chớp Mắt Với Cái Nhìn Chăm Chú Không Lay Động, vị an trụ có thể khiến pháp tánh của chánh định samādhi không bao giờ lìa mất khỏi tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Aniketa - Bằng Cách Không Trụ Trước, vị an trụ có thể nhìn thấy kỹ lưỡng sự chưa từng tồn tại chỗ trụ trước của pháp trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Gagana-kalpa - Bằng Phương Pháp Như Hư Không, vị an trụ có thể quán sát chi tiết tường tận tính không có thực thể của bản tánh hiện hữu của hư không trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Niścitta - Bằng Cách Ra Khỏi Tâm, vị an trụ có thể đoạn trừ, từ bỏ, tiêu trừ các pháp thuộc tâm và các tâm sở phụ thuộc trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Rūpāparyanta - Bằng Cách Không Tận Cùng Sắc, vị an trụ có thể hiển hiện, chiếu rọi, làm hiện ra các hình sắc.
Có chánh định samādhi Vimala-pradīpa - Bằng Ngọn Đèn Thanh Tịnh, Bằng Ánh Sáng Không Vẩn Đục Hoàn Toàn Trong Sạch Thanh Tịnh, vị an trụ có thể làm ngọn đèn soi sáng cho tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharmāparyanta - Bằng Cách Không Tận Cùng Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể hiển bày trí tuệ không cùng tận trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Vidyud-unmiṣa - Bằng Tia Chớp Mở Ra Loé Sáng, vị an trụ có thể hiển bày trí tuệ không cùng tận trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-prabhaṃkara - Bằng Cách Tạo Ra Ánh Sáng Cho Tất Cả, vị an trụ có thể biểu hiện rõ ràng, hiển thị cận cảnh, dẫn dắt tầm nhìn cửa vào nguồn sáng của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Dhātu-paryanta - Bằng Cách Giới Hạn Tận Cùng Của Các Giới, vị an trụ có thể hiển bày sự thông tri không tận cùng trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Samādhi-śuddha-sāra - Bằng Cách Ở Ngay cốt lõi Tinh túy, bản chất tinh khiết Thanh tịnh, trong sạch, không cấu uế, đã được lọc bỏ phiền não và nhiễm ô của Chánh Định samādhi, vị an trụ có thể đạt đến, chứng đắc, tiếp cận hoàn toàn trong pháp thuộc chánh định samādhi với Bản Tánh Rỗng Không (śūnyatā).
Có chánh định samādhi tên Meru-citra - bằng hình ảnh rực rỡ của núi Meru, vị an trụ có thể thấy rõ, trình bày ra trước mắt trạng thái trống rỗng trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi Vimala-prabha - Bằng Ánh Sáng Chiếu Soi Hoàn Toàn Trong Sạch, Thanh Tịnh, Không Nhiễm Ô, vị an trụ có thể lôi kéo ra khỏi, làm rút lui, dứt bỏ đi cấu uế, nhiễm ô, vết nhơ của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharmāsaṃprabheda - Bằng Trạng Thái Không Bị Phân Tán, Không Chia Cắt, Trạng Thái Toàn Vẹn Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể làm cho thấy rõ sự siêu việt với trạng thái vượt lên trên những giới hạn hoặc phiền não bằng trạng thái không chia cắt của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Ratikara - Bằng Cách đem lại niềm hỷ lạc, sinh ra trạng thái vui thích, vị an trụ có thể được, nhận lấy, đạt được niềm an lạc, trạng thái hỷ lạc, trạng thái yêu thích sâu xa trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharma-svabhāva-vikrīḍita - Bằng Cách Vận Hành Vui Đùa, Biểu Hiện Như Trò Chơi, Sự Vận Động Tự Nhiên Của Bản Tính Trong Tự Tánh Hiện Hữu Của Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể trình hiện, chỉ bày, làm cho thấy rõ sự không thể nắm bắt hình tướng trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Vidyud-vikaraṇa - Bằng Cách biến hóa, phóng chiếu ra, hiển hiện đa dạng lan toả ánh sáng tia chớp, vị an trụ có thể trình hiện, hiển thị, chỉ bày, làm cho thấy rõ tánh vô tướng, trạng thái vượt khỏi mọi dấu hiệu hay đặc tính khả tri, không thể định danh trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharmā-nikṣepa-viraja - Bằng Cách Thanh Tịnh, Không Cấu Uế, Không Bị Nhiễm Ô Bởi Phiền Não, Vọng Tưởng Không Cố Định, Không Trú Trụ, Với Trạng Thái Không Neo Chấp, Không Bám Giữ Vào Bất Kỳ Nơi Nào Của Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể biểu hiện rõ trí tuệ thanh tịnh không cấu nhiễm của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Akṣaya-vata - Bằng Pháp Tánh Không Hư Hoại, Không Đoạn Tận, Không Mất, Vĩnh Hằng, vị an trụ có thể thấy rõ tường tận sự không hoại diệt cũng không phải không hoại diệt của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-dharmācintya-śuddha - Bằng Cách Thanh Tịnh, Trong Sạch, Không Ô Nhiễm, Không Thể Tư Duy, Không Thể Nghĩ Bàn, Vượt Ngoài Khái Niệm, Không Thể Nắm Bắt Bằng Suy Luận Tất Cả Ngôn Từ Hoàn Toàn Lặng Yên Của Tất Cả Các Pháp, vị an trụ có thể thấy rõ Pháp ví dụ như ảnh hiện, ví dụ về hiện tượng tạm thời, ảo hóa của tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Tejo-vata - Bằng Ánh Sáng Như Lửa, vị an trụ có thể làm rực sáng lửa trí tuệ trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi Kṣayā-pagata - Bằng Cách đã lìa khỏi, đã rời xa, đã không còn Sự hoại diệt, sự kết thúc, sự tàn lụi, vị an trụ có thể thấy rõ ràng tường tận trạng thái không bị nhiễm vào, không nhập vào, không tiếp cận bất hoại, không suy tàn, không đoạn diệt của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Aniñjita - Bằng Cách Không Bị Dao Động, Không Bị Lôi Kéo, vị an trụ có thể không phan duyên, không khởi vọng tưởng, không phân biệt hư vọng, không run rẩy, không bị động, không rung động, không chuyển động theo tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Vivardhana - Bằng Cách Làm Lớn Lên, Sự Làm Tăng Trưởng, vị an trụ có thể nhìn thấy trọn vẹn, chứng tri một cách đầy đủ, trực nhận rõ ràng cái cần được biết, điều có thể được nhận thức thuộc đối tượng của trí tuệ đang tăng trưởng, đang lớn mạnh khi nhập vào các tầng thiền định (samāpatti) của tất cả chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sūrya-pradīpa - Bằng Đèn Mặt Trời, vị an trụ có thể phóng ra các luồng ánh sáng trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Candra-vimala - Bằng Mặt Trăng Không Nhiễm Ô, Thanh Tịnh, Trong Suốt, vị an trụ có thể tạo ra ánh sáng, sự chiếu rọi, sự soi thấy trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Śuddha-pratibhāsa - Bằng Cách Hiện Khởi Hình Ảnh Thanh Tịnh Tinh Khiết, vị an trụ có thể đạt được cho chính mình, chứng đắc, thành tựu bốn loại trí phân biệt toàn diện trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi Kārākāra - Bằng Cách Tạo Ra Tác Động, vị an trụ có thể nhìn thấy trọn vẹn, chứng tri rõ ràng, trực nhận một cách đầy đủ ngọn cờ trí tuệ trong khi đang tạo ra các hành vi, hoạt động, tác động và tạo ra chỗ cư trú tác ý trong các hành vi, hoạt động, tác động đó.
Có chánh định samādhi tên Vajropama - bằng ví dụ như kim cương, làm, tạo ra, thực hiện khả năng đột phá, xuyên thấu, đâm thủng, mà vị an trụ có thể không nhận thấy, không quán thấy, không thấy được ngay cả, dù chỉ là cái được đâm thủng, xuyên nhập ấy của tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Citta-sthita - Bằng Cách An Trụ, Giữ Vững Kiên Cố Trái Tim Yên Ổn, trái tim của vị an trụ không dao động, không lay chuyển, không chấn động, không bị đâm thủng, không hiện tướng, không biểu hiện, không rơi vào rối loạn, không bị tổn hại, không rơi vào trở ngại, và vị ấy cũng không khởi lên ý niệm rằng: “Đây là trái tim”.
Có chánh định samādhi tên Samantāloka - Bằng Ánh Sáng Chiếu Khắp Mọi Nơi, vị an trụ có thể nhìn thấy toàn vẹn, quán thấy rõ ràng ánh sáng trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Supratiṣṭhita - Bằng Cách an trụ một cách tốt đẹp, được thiết lập kiên cố, vững chãi, vị an trụ có thể an lập, trụ vững, ổn định trạng thái được an lập vững chắc, trạng thái thiết lập tốt đẹp trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Ratna-kūṭa - Bằng Đỉnh Ngọc Quý Cao Nhất, vị an trụ có thể được thấy chính mình giống như một đỉnh ngọc quý trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Vara-dharma-mudrā - Bằng Cách Ấn Chánh Pháp Tối Thượng, vị an trụ có thể đóng dấu ấn tất cả các chánh định samādhi; do nhìn thấy, quán sát, chứng tri một cách toàn diện tính bình đẳng của các pháp, không thấy có pháp nào lìa khỏi tính bình đẳng.
Có chánh định samādhi tên Ratiṃ-jaha - Bằng Cách Từ Bỏ Và Xả Bỏ Sự Ưa Thích, Tham Ái, Đắm Nhiễm, vị an trụ có thể xả bỏ và từ bỏ sự ưa thích, tham ái và đắm nhiễm trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Dharmolka - Bằng Cách Chiếu Sáng Lửa Chánh Pháp, vị an trụ có thể đạt được cho chính mình, chứng đắc, thành tựu trạng thái không do chiến đấu tạo nên, không sinh từ đấu tranh, không bị tạo ra bởi đối đãi, không đối kháng trong tất các cả pháp.
Có chánh định samādhi tên Akṣarā-pagata - Bằng Cách Lìa Khỏi, Vượt Ngoài Chữ Cái, Ngôn Ngữ, vị an trụ có thể không nhận thấy dù chỉ một chữ cái, một từ trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Ālaṃbana-ccheda - Bằng Cách Chặt Đứt, Đoạn Diệt, Phá Bỏ Chỗ Nương, Đối Tượng Nhận Thức, Cảnh Sở Duyên Của Thức, vị an trụ có thể chặt đứt hoàn toàn, tiêu trừ tận gốc tất cả mọi chỗ nương, đối tượng nhận thức, cảnh sở duyên của thức.
Có chánh định samādhi tên Avikāra - Bằng Trạng Thái Không Biến Đổi, Không Dao Động, Vắng Mặt Của Hiện Tượng Biến Hoại, vị an trụ sẽ không nhận thấy, không nắm bắt, không còn hiện tượng nhận thức về sự biến động, thay đổi, biến hóa của tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Prakṛti-viśuddha - Bằng Cách thanh tịnh, tinh sạch Bản tánh, tự tính, thể nguyên sơ vốn sẵn có của mình, vị an trụ sẽ không thấy được, không nhận lấy được, không chứng đắc được vào bất kỳ sự hỗ trợ, sự giúp đỡ, sự lợi ích, sự tương duyên nào của tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Aniketa-cara - Bằng Người sống lang thang, người không trú xứ, người không chấp nơi chốn, vị an trụ không thấy được, không nhận lấy được, không chứng đắc được trú xứ, chỗ cư trú, nơi nương tựa trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Timirā-pagata - Bằng Cách rời khỏi, vượt qua, lìa xa Bóng Tối Ám Chướng Vô Minh, vị an trụ có thể vượt qua, siêu vượt, đi qua cảnh giới bóng tối, cảnh vô minh, phạm vi thuộc về bóng tối, hoàn toàn không nhận thấy các hành xứ của tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-guṇa-saṃcaya-gata - Bằng Cách Đi Vào Trạng Thái Tích Tập Tất Cả Công Đức Có Trạng Thái Thánh Thiện Tốt Lành Trong Sạch Dễ Chịu, vị an trụ có thể lìa bỏ và xả bỏ sự tích tụ trong tất các cả pháp.
Có chánh định samādhi tên Sthita-niścitta - Bằng Cách an lập, giữ vững, không dao động Trong Trái Tim Hoàn Toàn Vắng Lặng, vị an trụ có thể không nhận biết, không thấy được, không khởi niệm “đây là tâm” trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Bodhyaṅga-gata - Bằng Cách đến, nhập vào, thành tựu Các Chi Phần Tỉnh Thức, vị an trụ có thể tỉnh thức, nhận ra, giác ngộ tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Smṛti-vikaraṇa - Bằng Cách Triển Khai Vận Dụng Chánh Niệm, vị an trụ có thể chứng đắc, đạt lấy, đón nhận biện tài, sự khéo léo trong ngôn ngữ, khả năng thuyết pháp, ứng đối thông minh, khả năng hiểu biết tức thời, thuyết lý không ngăn ngại không thể đo lường được trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Tatkara-jñāna-viśuddha - Bằng Cách Thanh Tịnh, Hoàn Toàn Trong Sạch Được Tạo Ra Từ Trí Tuệ, vị an trụ có thể chứng đắc, đạt lấy, đón nhận sự bình đẳng không phân biệt giữa cái không giống nhau, không đồng đẳng trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Jñāna-ketu - Bằng Cách Giương Cao Ngọn Cờ Trí Tuệ, vị an trụ sẽ vượt qua toàn bộ ba cõi.
Có chánh định samādhi tên Jñāna-upaccheda - Bằng Cách Phân Đoạn Trí Tuệ, vị an trụ có thể thấy, chứng kiến, quán sát một cách chân thực sự phân cách, sự biệt lập, sự giới hạn của tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Jñāna-vikaraṇa - Bằng Cách biểu hiện, vận hành, triển khai Trí Tuệ, vị an trụ sẽ thấu hiểu toàn diện trạng thái vận hành, tính đa dạng, sự sai khác, sự ứng dụng của tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Niradhiṣṭhāna - Bằng Cách Không Chỗ Nương Tựa, vị an trụ có thể thấy rõ, quán sát đúng như thật các pháp đã thành, các hiện tượng có thật không có chỗ nương tựa, không có chỗ bám víu của tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Eka-vyūha - Bằng Một Sự Trang Nghiêm Duy Nhất, vị an trụ có thể quán thấy, thấy đúng như thật không có hai pháp nào đối đãi với nhau.
Có chánh định samādhi tên Ākāra-nirhāra-vata - Bằng Cách Loại Bỏ, Rút Khỏi, Kéo Ra Hình Tướng, Hình Thức, Dứt Sạch Biểu Hiện Ra Bên Ngoài, vị an trụ có thể quán sát, thấy rõ, chứng kiến đúng như thật sự đoạn trừ hoàn toàn trạng thái không còn tướng trạng tạo tác của tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Sarvādhi-kāra-sarva-bhavatala-vikaraṇa - Bằng Sự Vận Hành Năng Lực Tự Chủ Toàn Diện Chiếu Sáng Biến Hiện Toàn Thể Mọi Cõi Hữu, Mọi Tầng Hiện Hữu, vị an trụ có thể thâm nhập vào trí tuệ thấu suốt, trí tuệ xuyên nhập đến thật tướng của tất cả các pháp, vì sự thâm nhập rất sâu ấy, vị ấy không đạt được bất cứ điều gì, không nắm giữ bất cứ thứ gì.
Có chánh định samādhi tên Saṅketa-ruta-praveśa - Bằng Cách Thâm Nhập Vào Âm Thanh, Tiếng Động, Tiếng Kêu, Tiếng Nói, Ký Hiệu Và Biểu Tượng, vị an trụ có thể có thể thâm nhập, nhập sâu vào, tiến vào một cách tuần tự tất cả âm thanh, tiếng động, tiếng kêu, tiếng nói, ký hiệu và biểu tượng.
Có chánh định samādhi tên Ghoṣa-vāg-bhir-akṣara-vimukta - Bằng Cách Giải Thoát Không Tan Hoại Khỏi Âm Thanh, Tiếng Động, Tiếng Nói, Lời Nói, Ngôn Từ, Phát Ngôn, Âm Vang, Tiếng Phát Ra, vị an trụ có thể thấy đúng đắn, thấy trọn vẹn, thấy sâu sắc, nhận thức một cách toàn diện sự giải thoát khỏi ngôn từ, chữ nghĩa, biểu tượng, âm thanh, tiếng động, tiếng nói, lời nói, phát ngôn, âm vang, tiếng phát ra trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi Jñānolka-matā - Bằng Trạng Thái Pháo Sáng Trí Tuệ, nhờ đó vị an trụ có thể tỏa sáng, chiếu rọi và chói sáng rực rỡ trong tất cả chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Vara-jñāna-lakṣaṇa-vijṛṃbhita - Bằng Cách giăng rộng ra, bung mở, phát khởi, hiển lộ đặc tướng trí tuệ tối thắng, vị an trụ có thể chỉ ra, biểu lộ, biểu hiện các đặc tướng không thanh tịnh, chưa thuần tịnh trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Anabhijñā-lakṣaṇa-vata - Bằng Đặc Tướng không chứng tri, không nhận biết trực tiếp, không chứng đắc trực tiếp, vị an trụ có thể nhận thức sâu xa, thấy rõ một cách toàn triệt, thấy rõ, trực nhận đối tượng không thể đặc tướng hóa, bản thể không thể nhận biết qua dấu hiệu nào trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Sarvākāra-vara-opata - Bằng Cách kết hợp với, trang bị với, đi kèm với, hợp nhất với mọi hình tướng, biểu hiện tối thượng, tốt đẹp nhất, vị an trụ có thể làm cho hiện hữu trạng thái kết hợp với, trang bị với, đi kèm với, hợp nhất với mọi hình tướng, biểu hiện tối thượng, tốt đẹp nhất trong các chánh định samādhi của tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Sarva-duḥkha-sujaha - Bằng Khả Năng Kham Nhẫn, Chịu Đựng Mọi Khổ Đau, Phiền Não, vị an trụ có thể thấy đúng đắn, thấy trọn vẹn, thấy sâu sắc, nhận thức một cách toàn diện điều không nương tựa, trạng thái không có sở y trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Akṣaya-kāraṇa - Bằng Nhân Tố Không Hoại Diệt, Thường Hằng, vị an trụ có thể hoàn toàn không thấy sự bất hoại trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Dhāraṇa-pada - Bằng Từ Ngữ, Công Cụ, Phương Tiện Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī, vị an trụ có thể trì giữ, thọ trì tất cả các chánh định samādhi và tất cả các pháp, vị ấy không thấy, không quán sát trạng thái phân biệt giữa tính đúng, chánh kiến và tính sai, tà kiến.
Có chánh định samādhi tên Nirodha-vidha-praśama - Bằng Cách Tĩnh Lặng, Bình Ổn Phương Thức, Loại Hình, Cách Thức Đoạn Diệt, Chấm Dứt, vị an trụ có thể không thấy, không quán sát sự thuận tùng, sự hạn chế, sự ngăn cản và sự đối nghịch, mâu thuẫn, chướng ngại, đối nghịch, xung đột, trái ngược của tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Vimala-prabhāsa - Bằng Ánh Sáng Thanh Tịnh, Không Ô Nhiễm, vị an trụ có thể không thấy, không quán sát sự thanh tịnh do tạo tác làm thành trong tất cả chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sāra-anugata - Bằng Cách Tùy Thuận, Tùy Tùng, Theo Chân Tánh Cốt Yếu, Tinh Túy, Thực Chất, vị an trụ có thể không nhận lấy, không thấy, không nắm giữ cái không có cốt lõi, cái giả dối trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Pūrṇa-candra-vimala - Bằng Cách thanh tịnh, không nhiễm ô mặt trăng tròn đầy, vị an trụ có thể thành tựu đầy đủ các công đức trong tất cả chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Mahā-vyūha - Bằng Trạng Thái Trang Nghiêm Vĩ Đại, vị an trụ có thể trở thành đồng hiện với, kết hợp với sự trang nghiêm vĩ đại trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Sarva-loka-prabheda - Bằng Cách phân biệt, dị biệt, phân hóa tất cả thế gian, vị an trụ có thể làm rạng chiếu, soi sáng, hiển lộ bằng trí tuệ trong tấty cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Samādhi-samatā-virocana - Bằng Trạng Thái Chiếu Rạng sự bình đẳng, đồng đẳng của chánh định samādhi, vị an trụ có thể nhận được, đạt được sự nhất tâm, định tâm vào một đầu, một mũi nhọn, một điểm trong tất cả các chánh định samādhi.
Có chánh định samādhi tên Araṇa - Bằng Cách không đối kháng, không xung đột, tịch tĩnh, vị an trụ có thể không tranh đấu, không chiến đấu, không tạo sự xung đột trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Anila-niketa - Bằng Cách với chỗ trú như gió, không có chỗ trú cố định, vị an trụ có thể không tạo ra, không thiết lập chỗ trú ngụ, nền tảng, nơi nương tựa trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Tathāsthita-nīścitta - Bằng Cách Thoát Ly, Không Còn Tâm Chấp Thủ Vào Trái Tim, Vì Đã An Trụ, Đã Ổn Định Như Thật, vị an trụ có thể không thối chuyển, không quay lui Tánh Chân Như Thật Tướng (tathatā) trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Kāya-kali-saṃpramathana - Bằng trạng thái nghiền nát hoàn toàn, phá hủy mạnh sự tạp uế, nhiễm ô của thân thể, vị an trụ có thể không nhận thấy, không còn thấy là có thật với cái thân chấp là thật, năm uẩn chấp là ngã trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Vāk-kali-vidhvaṃsana-gagana-pratilabdha - Bằng Cách Đã Đạt Được bầu trời, hư không tiêu trừ, hủy diệt sự ô nhiễm, nhiễm ô của lời nói, vị Bồ Tát an trụ có thể không nhận thấy, không chấp thủ, không tiếp nhận hành động của ngôn ngữ, tác nghiệp qua lời nói trong tất cả các pháp.
Có chánh định samādhi tên Ākāśa-saṃgagati-vimukti-nirupalepa - Bằng Cách Không Dính Mắc, Không Nhiễm Ô Với Sự Giải Thoát, Sự Hợp Nhất, Cùng Tồn Tại Với Hư Không, Không Gian, vị Bồ Tát an trụ có thể đạt được, thấu nhập trạng thái hòa nhập với hư không trong tất cả các pháp.
Đây là các hướng dẫn nhập vào cửa chánh định samādhi của các vị Bồ Tát đã khởi hành trên cỗ xe Đại thừa.
Các loại hành trang thanh tịnh
Ở đây, thế nào là bài giảng pháp hướng dẫn cách tập hợp các cửa vào hành trang thanh tịnh của các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát?
Hành trang dāna - Bố Thí, Ban Tặng, Cho Đi Tài Vật (Tài Thí), Giáo Pháp (Pháp Thí), Sự Không Sợ Hãi (Vô Úy Thí), Bồ Tát thành tựu nhằm làm chín muồi chúng sinh, diệt tham lam chính mình, xây dựng tâm từ bi và hành động vị tha.
Hành trang śīla - Giữ Giới, Giới luật về thân, khẩu, ý; sống đúng đắn, trong sạch, Bồ Tát thành tựu để viên mãn các nguyện, làm nền tảng cho thiền định, tạo tín nhiệm và yên ổn xã hội.
Hành trang kṣānti - Nhẫn nhục chịu đựng, nhẫn với người, với vật, hoàn cảnh và chân lý, không nổi giận, không oán trách, Bồ Tát thành tựu để viên mãn các tướng chính và các tướng phụ, hóa giải sân hận, phát triển lòng khoan dung và ý chí vững bền.
Hành trang vīrya - Tinh tấn siêng năng, nỗ lực không ngừng nghỉ để thực hành thiện pháp và độ sinh, Bồ Tát thành tựu để viên mãn mọi công hạnh lối sống, phá biếng nhác, phát triển sức mạnh nội tâm và nghị lực
Hành trang dhyāna - Thiền định, tập trung tâm ý, đạt nhất tâm, an trú, là cơ sở phát sinh trí tuệ, Bồ Tát thành tựu nhờ tâm thuần thục như ngựa quý, thanh lọc tâm thức, định tâm, dẫn đến chánh trí.
Hành trang prajñā - Tuệ Giác, thấy rõ sự thật: vô thường, vô ngã, do duyên sinh, tánh Rỗng Không, làm hiện rõ tuệ giác Bát Nhã, Bồ Tát thành tựu nhờ hoàn toàn thấu triệt tất cả phiền não, cắt đứt vô minh, đạt giác ngộ Tỉnh Thức.
Hành trang śruta - Nghe nhiều, học rộng, biết nhiều, Bồ Tát thành tựu nhờ trí tuệ biện tài không vướng mắc, thuộc giai đoạn đầu trong trí tuệ: nghe pháp – học lý thuyết từ kinh điển và thiện tri thức.
Hành trang puṇya - Phước Đức, Sự Thánh Thiện Tốt Lành Trong Sạch Dễ Chịu, Bồ Tát thành tựu nhờ đem lại sự nương tựa cho tất cả chúng sinh, làm tăng trưởng quả báo tốt, hỗ trợ con đường Bồ Tát đạo.
Hành trang jñāna - Tri thức, hiểu biết, nhận thức đúng, với Trí tuệ toàn diện, có nhiều cấp độ: trí phàm phu, trí thế gian, trí xuất thế, trí Tỉnh Thức, Bồ Tát thành tựu nhờ trí tuệ không vướng mắc, là yếu tố cốt lõi đưa đến giải thoát và Tỉnh Thức.
Hành trang śamatha - thiền chỉ, bằng cách tịnh chỉ, an chỉ, lắng tâm, an tĩnh nội tâm, với trái tim an trú – đối trị tán loạn và sân hận, Bồ Tát thành tựu nhờ bằng trạng thái tâm hành động, làm nền tảng cho vipaśyanā; dẫn đến định lực và nội tâm ổn định.
Hành trang vipaśyanā - thiền Quán, dùng tuệ giác quán sát – thấy rõ bản chất vô thường, vô ngã, khổ – đối tượng của thiền minh sát, Bồ Tát thành tựu nhờ sự không còn nghi ngờ, không còn lưỡng lự, phân vân, dẫn đến trí tuệ giải thoát, giúp người thực hành đoạn tận vô minh.
Hành trang maitrī - Lòng Từ, Lòng từ ái, Tình thân thiện, tâm bằng hữu, mong muốn mọi chúng sinh được an lạc, không hận thù, Bồ Tát thành tựu nhờ trạng thái tâm không bị chướng ngại, thuộc phạm vi ở trong lối sống Phạm hạnh trong sạch thanh tịnh (brahmavihāra)
Hành trang karuṇā - Lòng Bi, Lòng thương xót, Sự xúc động trước nỗi đau của người khác, mong muốn cứu khổ, với lòng không vô cảm, Bồ Tát thành tựu để không mệt mỏi trong việc nuôi dưỡng, không nản lòng khi giáo hóa trong việc làm chín muồi chúng sinh, là thành tố cốt lõi của lối sống Bồ Tát.
Hành trang muditā - Lòng hoan hỷ, vui mừng, vui trước thiện nghiệp hoặc thành công của người khác, Bồ Tát thành tựu vì niềm vui trong việc sống hưởng thụ giữa khu vườn chánh pháp, đối trị đố kỵ, là yếu tố nuôi dưỡng tâm hồn rộng lớn.
Hành trang upekṣā - Nhìn Gần, Quan Sát Gần, Nhìn Một Cách Bình Thản, Không Thiên Lệch, Bồ Tát thành tựu nhờ diệt trừ sự thiên vị, trừ bỏ sân hận, khuynh hướng cưỡng chống, loại bỏ xu hướng nội tâm đối kháng như sân hận và đố kỵ.
Hành trang dharma-śravaṇa - Nghe pháp, Nghe giáo pháp, là bước đầu để phát triển trí tuệ, Bồ Tát thành tựu nhằm trừ bỏ sự ngăn che, che lấp trí tuệ, thuộc giai đoạn “văn huệ” trong tam huệ (śruta, cintā, bhāvanā).
Hành trang niṣkramaṇa - xuất ly, bước đi ra khỏi, thoát khỏi, Xuất gia, rời nhà thế tục để vào đời sống phạm hạnh, với hành vi từ bỏ thế gian để bước vào đạo lộ, Bồ Tát thành tựu nhằm xả bỏ tất cả sự nắm giữ, tất cả sự sở hữu, chấp thủ, vật chất lẫn tinh thần – là điều kiện tiên quyết của xuất gia và chứng ngộ.
Hành trang araṇyavāsa - Ẩn cư trong rừng, sống nơi tĩnh lặng, vắng lặng, với môi trường lý tưởng tu hành xa rời đô thị, biểu hiện sự thanh tịnh, xa lìa phiền não và ô nhiễm, Bồ Tát thành tựu nhờ tính không mất của nghiệp đã tạo.
Hành trang smṛti - Ghi nhớ, chánh niệm, giữ tâm không tán loạn, ghi nhớ pháp, đối trị quên lãng trong thiền định, Bồ Tát thành tựu nhờ đạt được các Năng lực trì giữ chân lý Dhāraṇī.
Hành trang mati - Tuệ mati Tỉnh Thức, được hiển lộ khi cái thấy (darsana), trí biết (jñāna) và tuệ giác (prajñā) thẳng hàng với nhau, Bồ Tát thành tựu nhờ khả năng phân tích, chia tách của trí tuệ Toàn Giác (buddhi).
Hành trang gati - Đi, chuyển động, vận hành, con đường, các cấp độ tâm hành hướng đến mục tiêu Tỉnh Thức, Bồ Tát thành tựu nhờ khả năng nhận biết sự vận hành, con đường đến đi của của ý nghĩa.
Hành trang smṛty-upasthān - Sự Thiết Lập, Đặt Vào Chánh Niệm, Ghi Nhớ, Bồ Tát thành tựu nhờ nhận biết thân (kāya), thọ (vedanā), tâm (citta) và pháp (dharma).
Hành trang samyak-prahāṇa - đoạn trừ, buông bỏ, xả ly đúng đắn, chân chánh, Bồ Tát thành tựu để đoạn trừ tất cả các pháp bất thiện và tu tập tất cả các pháp thiện, loại trừ tận gốc các cấu uế, tà tư duy, phiền não khởi lên trong thân – khẩu – ý.
Hành trang ṛddhi-pāda - Bước Chân Căn Bản thần thông, thành tựu siêu nhiên, Bồ Tát thành tựu nhờ đạt được sự nhẹ nhàng, thanh thoát của thân và tâm.
Hành trang indriya - Các Căn, Giác Quan, Năng Lực Cảm Nhận, Năng Lực Làm Chủ, Năng Lực Kiểm Soát, Bồ Tát thành tựu để viên mãn các căn, giác quan, năng lực cảm nhận, năng lực làm chủ, năng lực kiểm soát của tất cả chúng sinh.
Hành trang bala - Các Lực, Sức Mạnh, Năng Lực, Bồ Tát thành tựu nhờ khả năng không bị khuất phục bởi tất cả phiền não, không bị các phiền não như tham, sân, si khống chế hay làm suy yếu.
Hành trang bodhyaṅga - Giác chi, Các Chi Phần Tỉnh Thức, Bồ Tát thành tựu nhờ trạng thái nhận biết, tỉnh giác, thấu hiểu tự tánh hiện hữu của chính nó của các pháp.
Hành trang mārga - Đạo Lộ, Con Đường, Bồ Tát thành tựu nhờ vượt qua mọi tà đạo, con đường sai lạc.
Hành trang satya - Chân thật, Chân Lý, Bồ Tát thành tựu nhằm tránh xa, lìa bỏ các pháp bất thiện và đạt được sự sinh vào cõi trời.
Hành trang pratisaṃvit - Biện tài, Trí Phân Biệt Rõ Ràng, Bồ Tát thành tựu nhờ khả năng dứt trừ, cắt đứt mọi nghi hoặc của tất cả chúng sinh.
Hành trang pratisaraṇa - Nương Tựa Quy Y, Bồ Tát thành tựu nhờ trí tuệ không lệ thuộc, không phụ thuộc vào lỗi lầm, trí tuệ không bị sai lầm chi phối.
Hành trang kalyāṇa-mitra - Thiện tri thức, Thiện Hữu, Bạn Lành, Bồ Tát thành tựu như là cửa dẫn đến mọi công đức.
Hành trang āśaya - Tâm ý, căn cơ, ý hướng bên trong, Bồ Tát thành tựu nhờ trạng thái không trái nghịch, không làm thất vọng đối với tất cả thế gian.
Hành trang prayoga - Hướng Đến Duy Thức Hoàn Toàn, Bồ Tát thành tựu nhờ vượt trội (uttaraṇa) hơn tất cả các hành trang khác.
Hành trang adhyāśaya - Ý hướng thâm sâu, ý chí tối thượng, Bồ Tát thành tựu nhờ đạt đến sự đặc biệt phi thường.
Hành trang pratisaṃlāna - ẩn, rút, thu nhiếp cùng nhau hướng lại tĩnh lặng nội tâm, Bồ Tát thành tựu nhờ thực hành đúng như pháp đã nghe.
Hành trang saṅgraha-vastu - Đối tượng, thực thể thu nhiếp, bao dung, Bồ Tát thành tựu để làm chín muồi chúng sinh.
Hành trang saddharma-parigraha - Tiếp Nhận, Giữ Gìn Chánh pháp, Bồ Tát thành tựu nhờ không làm gián đoạn dòng giống, hệ thống Tam Bảo.
Hành trang pariṇāmanā-vidhi-jñāna-kauśalya - Khéo Léo Trong Trí Tuệ Về Phương Pháp Hồi Hướng, Bồ Tát thành tựu để hoàn toàn thanh tịnh cõi Phật.
Hành trang upāya-kauśalya - Phương tiện thiện xảo, Bồ Tát thành tựu để hoàn toàn viên mãn trí tuệ toàn tri (sarvajña-jñāna).
Thưa cha bậc thiện nhân, đây chính là bài giảng pháp về cách tập hợp các cửa vào hành trang thanh tịnh của các vị Bồ Tát.
Lại nữa, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, sau khi nhìn khắp đại hội các Đại Bồ Tát, liền gọi Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát, và nói rằng:
Trang sức năng lực phân biệt đúng (vaiśāradyālaṅkāra) để đầy đủ nhẫn nhục chịu đựng (kṣānti)
Thưa cha Đại Bi, bằng cách nào, với sự trang nghiêm bởi trang sức năng lực phân biệt đúng (vaiśāradyālaṅkāra), mà vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát, viên mãn đầy đủ nhẫn nhục chịu đựng (kṣānti)?
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát thấy được chân lý tối thượng (paramārtha), có tâm thâu nhận, gìn giữ sự tinh tấn không hư hoại, và có tâm không nắm giữ, không chấp trước đối với tất cả chúng sinh trong khắp ba cõi; tâm ấy được gọi là pháp Sa-môn thanh tịnh với năng lực phân biệt đúng lớn, bởi vì tâm ấy bình đẳng như hư không trong tất cả các pháp.
Thưa cha Đại Bi, đây chính là trang sức năng lực phân biệt đúng của Bồ Tát.
Lại nữa, thế nào là sự viên mãn của nhẫn nhục chịu đựng?
Vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát không hề nhận thấy dù chỉ là một pháp nhỏ như hạt bụi ở nơi ấy, cũng không có gì để có thể nhận thức được hay được giác ngộ bởi ai đó, mà lại chuyên tâm vào các pháp không có quả báo.
Cụ thể là:
Lòng Từ, Lòng từ ái, Tình thân thiện, tâm bằng hữu, mong muốn mọi chúng sinh được an lạc, không hận thù (maitrī) thì không có tự ngã (nairātmyaṃ),
Lòng Bi, Lòng thương xót, Sự xúc động trước nỗi đau của người khác, mong muốn cứu khổ, với lòng không vô cảm (karuṇā) cùng với trạng thái không có chúng sinh (niḥsattvatā),
Lòng hoan hỷ, vui mừng, vui trước thiện nghiệp hoặc thành công của người khác (muditā) cùng với trạng thái không có mạng sống (nirjīvitā),
Nhìn Gần, Quan Sát Gần, Nhìn Một Cách Bình Thản, Không Thiên Lệch (upekṣā) cùng với trạng thái không có con người (niṣpudgalatā).
Bố thí (dāna) cùng với trạng thái tâm đã được điều phục, chế ngự (dāntacittatā),
Giữ giới (śīla) cùng với trạng thái tâm an tịnh, lặng lẽ (śāntacittatā),
Nhẫn nhục chịu đựng (kṣānti) cùng với trạng thái tâm bao dung, biết tha thứ (kṣamācittatā),
Tinh tấn nỗ lực (vīrya) cùng với trạng thái tâm ly khai, biết phân biệt đúng sai (vivekacittatā),
Thiền định, tập trung tâm ý, đạt nhất tâm, an trú (dhyāna) cùng với trạng thái tâm luôn quán chiếu, tư duy nội tâm (nidhyapticittatā),
Tuệ giác (prajñā) cùng với trạng thái tâm cao thượng, siêu việt, bao la (udāracittatā).
Sự Thiết Lập, Đặt Vào Chánh Niệm, Ghi Nhớ (Niệm Xứ) (smṛtyupasthāna) cùng với trạng thái tâm ghi nhớ và quán sát (smṛtyamanasikāra-cittatā),
Đoạn trừ, buông bỏ, xả ly đúng đắn, chân chánh (samyakprahāṇa) cùng với trạng thái tâm không sinh không diệt (anutpāda-nirodha-cittatā),
Bước Chân Căn Bản thần thông (ṛddhipāda) cùng với trạng thái tâm vô lượng (apramāṇa-cittatā),
Lòng tin (śraddhā) cùng với trạng thái tâm không dính mắc (asaṅga-cittatā),
Niệm (smṛti) cùng với trạng thái tâm tự phát sinh (svayaṃbhū-cittatā),
Định (samādhi) cùng với trạng thái tâm tuỳ thuộc nhập vào các tầng thiền (samāpatti-anu-cittatā),
Căn giác quan tuệ giác prajña (prajñendriya) cùng với trạng thái tâm vượt ngoài các căn giác quan (atīndriya-cittatā),
Lực sức mạnh (bala) cùng với trạng thái tâm không bị áp đảo (anavamarda-cittatā),
Chi phần Tỉnh Thức (bodhyaṅga) cùng với trạng thái tâm phân biệt rõ ràng trí tuệ (buddhiprabhedana-cittatā),
Đạo lộ, đường đi (mārga) cùng với trạng thái tâm tu tập làm hiện hữu (bhāvanā-cittatā),
Chỉ (śamatha) cùng với trạng thái tâm tịch tĩnh (upaśama-cittatā),
Quán (vipaśyanā) cùng với trạng thái tâm không mê lầm (asaṃmoha-cittatā).
Tu tập làm cho hiện hữu bốn Thánh đế (āryasatyabhāvanā) cùng với trạng thái tâm tu tập làm cho hiện hữu sự liễu tri hiểu rõ tuyệt đối (atyanta-parijñā-bhāvanā-cittatā),
Quán tưởng Phật (buddhamanasikāra) cùng với trạng thái tâm không chấp vào tự ngã (asvakāra-cittatā),
Quán tưởng Pháp (dharmamanasikāra) cùng với trạng thái tâm bình đẳng với Pháp giới (dharmadhātu-sama-cittatā),
Quán tưởng Tăng (saṅghamanasikāra) cùng với trạng thái tâm không bám trụ (apratiṣṭhita-cittatā).
Giáo hóa làm chín muồi chúng sinh (sattvaparipācana) cùng với trạng thái tâm thanh tịnh nguyên sơ (ādi-viśuddhi-cittatā),
Tiếp nhận, Giữ Gìn Chánh pháp (saddharma-parigraha) cùng với trạng thái tâm hòa nhập với Pháp giới (dharmadhātu-saṃbheda-cittatā),
Thanh tịnh cõi Phật (kṣetra-pariśuddhi) cùng với trạng thái tâm bình đẳng như hư không (ākāśa-sama-cittatā),
Thành tựu tướng tốt (lakṣaṇa-paripūri) cùng với trạng thái tâm không có tướng (alakṣaṇa-cittatā),
Chứng đắc Nhẫn (kṣānti-pratilābha) cùng với trạng thái tâm không thủ đắc (anupalambha-cittatā),
Nhập địa Bất thoái chuyển (avaivartika-bhūmi) cùng với trạng thái tâm không lui sụt (saṃvarta-anivarta-cittatā).
Tâm Trang nghiêm đạo tràng Tỉnh Thức (bodhimaṇḍa-alaṅkāra-citta) cùng với trạng thái tâm nhiếp trọn ba cõi (traidhātuka-maṇḍala-cittatā),
Tâm Chế phục Ma (māra-nigraha-citta) cùng với trạng thái tâm gia hộ, che chở, cứu độ đối với chúng sinh tất cả chúng sinh (sarva-sattvebhyaḥ sarva-sattvānugraha-cittatā).
Tỉnh Thức (bodhi) cùng với trạng thái tâm Tỉnh Thức bình đẳng với tất cả các pháp (sarvadharma-samatābodhicittatā),
Chuyển bánh xe chánh pháp (dharmacakra-pravartana) cùng với trạng thái tâm không vận chuyển tất cả các pháp (sarvadharma-apravartana-cittatā),
Quán thấy, trực kiến, thị hiện Đại Bát Niết Bàn, trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối (mahāparinirvāṇa-saṃdarśana) cùng với trạng thái tâm mang bản tánh hiện hữu của luân hồi, trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng (saṃsārasvabhāva-cittatā).
Khi bài giảng pháp này được tuyên thuyết, có 64.000 vị Bồ Tát từ mười phương đã đến núi Linh Thứu, nơi đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai đang thuyết pháp, để nghe bài giảng pháp “Hướng Dẫn Cửa Vào Chánh Định samādhi và Các Phương Pháp Tu Tập Duy Thức Thuở Quá Khứ” (pūrvayoga-samādhi-mukha-nirdeśa) và bài giảng pháp “Cửa Vào Hành Trang Thanh Tịnh” (saṃbhāra-viśuddhi-mukha-dharma-paryāya). Các vị ấy đã chứng đắc nhẫn đối với các pháp không còn sinh khởi.
Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai nói rằng:
Này thiện nam tử, lại nữa, trong lúc bài giảng pháp môn này do đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết, có 48 lần số cát sông Hằng các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát đã chứng đắc nhẫn đối với các pháp không còn sinh.
Có số lượng Bồ Tát, và Đại Bồ Tát bằng số hạt hạ lượng tử của các thế giới thuộc bốn châu thiên hạ, đã chứng đắc tầng địa Bất Thoái Chuyển.
Và số lượng Bồ Tát, và Đại Bồ Tát bằng số cát sông Hằng, trong khi bài giảng pháp “Hướng Dẫn Cửa Vào Chánh Định samādhi” và “Cửa Vào Hành Trang Thanh Tịnh” này được thuyết giảng, đã chứng đắc trí tuệ thanh tịnh hoàn toàn viên mãn trọn vẹn.
Này thiện nam tử, vị Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát đó với trạng thái hỷ lạc thanh tịnh, an nhiên và an tịnh của tâm, thân Ngài liền biến thành sắc diện như một thanh niên đồng tử trạc 20 tuổi. Ngài theo sát và đứng phía sau đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai.
Này thiện nam tử, vua rājāmṛta-śuddha - Thanh Tịnh Bất Tử cùng với 1.000 người con, 80.000 tiểu vương, và thêm 200 triệu quần thần, đều xuất gia và thực hành duy thức chuyên chú với các công hạnh thanh tịnh gồm: giữ giới, nghe pháp, thiền chánh định samādhi, và khéo léo điều phục.
Này thiện nam tử, vị Bồ Tát Đại Bi Đại Bồ Tát, theo thứ tự tuần tự đã học thuộc và thông đạt 84.000 pháp uẩn về học thuyết Thanh Văn thừa từ nơi đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai.
Ngài đã được giảng dạy, học thuộc và thông đạt 90.000 pháp uẩn về học thuyết Độc Giác Phật thừa.
Sau đó, trong học thuyết Đại Thừa Tối Thượng và học thuyết về Sự Thiết Lập, Đặt Vào Chánh Niệm, Ghi Nhớ Nơi Thân (Thân Niệm Xứ - kāya-smṛty-upasthāna), Ngài đã được giảng dạy, học thuộc và thông đạt 100.000 pháp uẩn.
100.000 pháp uẩn trong học thuyết Sự Thiết Lập, Đặt Vào Chánh Niệm, Ghi Nhớ Nơi Các Cảm Thọ (Thọ Niệm Xứ - vedanā-smṛty-upasthāna).
100.000 pháp uẩn trong học thuyết Sự Thiết Lập, Đặt Vào Chánh Niệm, Ghi Nhớ Nơi Tâm (Tâm Niệm Xứ - citta-smṛty-upasthāna).
100.000 pháp uẩn trong học thuyết Sự Thiết Lập, Đặt Vào Chánh Niệm, Ghi Nhớ Nơi Các Pháp (Pháp Niệm Xứ - dharma-smṛty-upasthāna) đã được giảng dạy, học thuộc và thông đạt.
100.000 pháp uẩn trong học thuyết Uẩn-Giới (dhātu-skandha).
100.000 pháp uẩn trong thuyết Uẩn-Xứ (āyatana-skandha).
100.000 pháp uẩn trong học thuyết về Sự Đoạn Trừ, Từ Bỏ Các Trói Buộc, Kết Nối Với Tham Ái, Dục Vọng (rāga-saṃyojana-prahāṇa).
100.000 pháp uẩn trong học thuyết về Sự Đoạn Trừ, Từ Bỏ Các Trói Buộc, Kết Nối Với Sân Hận, Nóng Giận (dveṣa-saṃyojana-prahāṇa).
100.000 pháp uẩn trong học thuyết về Sự Đoạn Trừ, Từ Bỏ Các Trói Buộc, Kết Nối Với U Ám Si Mê và học thuyết về lý duyên khởi (moha-prahāṇa-pratītya-samutpāda).
100.000 pháp uẩn trong học thuyết về Chánh Định Samādhi và Giải Thoát (samādhi-vimokṣa).
100.000 pháp uẩn trong thuyết về các Lực, Biện Tài và Pháp Phật Bất Cộng (bala-vaiśāradya-aveṇika-buddha-dharma-skandha-kathā) đã được Ngài học thuộc và thông đạt.
Cho đến khi 1 triệu pháp uẩn đều được Ngài tiếp nhận và thông đạt từ nơi đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai.
Cho đến khi sau một khoảng thời gian nữa, đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, nhập diệt hoàn toàn vào cảnh giới Niết-bàn vô dư.
Này thiện nam tử, vị Bồ Tát Đại Bi đã thực hiện lễ cúng dường bằng vô lượng vô số nhạc cụ, hoa, bột hương, tràng hoa, hương thơm, các loại xoa bôi hương, lọng báu, cờ, phướn và các loại báu. Ngài đã tắm gội đức Như Lai với các loại hương khác nhau. Ngài đã dựng một bảo tháp bằng bảy báu để an trí xá-lợi, cao 5 yojana và rộng nửa yojana.
Sau đó, trong suốt bảy ngày, Ngài đã thực hiện lễ cúng dường bằng vô lượng vô số nhạc cụ, hoa, tràng hoa, hương thơm, hương xoa, lọng báu, cờ, phướn và các loại báu. Lại nữa, tại nơi đó, vô lượng vô số chúng sinh đã được dẫn nhập, an trụ và làm cho kiên cố vào ba thừa.
Khi bảy ngày ấy qua đi, Ngài cùng với 84.000 chúng sinh xuất gia, cạo bỏ tóc và râu, khoác pháp y màu cà-sa, từ bỏ đời sống tại gia mà bước vào đời sống xuất gia, và thắp sáng chánh pháp của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai đã nhập diệt. Ngài đã trở thành người giữ gìn Chánh Pháp trong 10.000 năm.
Ở nơi đó, Ngài đã dẫn nhập, an trụ và làm cho kiên cố vô lượng vô số chúng sinh vào ba thừa. Ngài làm cho họ an trụ trong ba sự quy y.
Ngài đã khiến họ an trụ và vững chắc trong giới pháp cư sĩ tại gia (upāsaka-saṃvara), giới pháp sa-di (śrāmaṇera-saṃvara), giới cụ túc tỳ-kheo (upasaṃpadāyāṃ bhikṣu-bhāva), và giới hạnh sống phạm hạnh thanh tịnh (brahmacaryavāsa-saṃvara).
Ngài đã hướng dẫn vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chúng sinh đạt được các thần thông, các phương tiện thần lực khéo léo, an trụ trong lối sống phạm hạnh thanh tịnh, quán xét các uẩn như kẻ thù, quán xét các xứ như làng xóm trống rỗng, quán xét tất cả các pháp đều do duyên sinh để đạt trí tuệ nhận biết các pháp do tạo tác làm thành (saṃskṛta-jñāna), và chỉ bày tất cả các pháp ví như bóng hiện, như ảo ảnh nắng dợn, như bóng trăng thứ hai trong nước.
Ngài chỉ bày trí tuệ nhận biết về Sự Không Sinh Diệt, Không Nối Tiếp, Tịch Diệt, An Tịnh, Cực Kỳ An Tịnh, Hoàn Toàn Tịch Diệt Lặng Yên, Sự Diệt Tận Cực Kỳ Tối Thượng, và Niết-bàn, trạng thái hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối, rồi an trụ họ vào Tám Thánh Đạo. Và sau cùng là thời điểm Ngài viên tịch.
Cũng như vậy, các chúng sinh ấy đã làm lễ cúng dường xá-lợi của vị Đại Bi mahākāruṇika, vị Đại Sa-môn Thanh Tịnh, giống như cách cúng dường xá-lợi của một vị Chuyển luân Thánh vương.
Và vào ngày mà vị Đại Bi, Đại Sa-môn ấy viên tịch, thì ngay trong ngày đó, Chánh Pháp của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai liền ẩn mất.
Và các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát ấy, nhờ sức bản nguyện, đã chọn tái sinh ở những thế giới khác.
Có vị, do bản nguyện, tái sinh ở cung trời tuṣita; có vị sinh vào loài người, có vị sinh trong loài rồng, có vị sinh trong loài asura, có vị do bản nguyện mà sinh vào các loài khác nhau thuộc đường súc sinh.
Này thiện nam tử, khi vị Bồ Tát Đại Bi, Đại Sa-môn Thanh Tịnh viên tịch, thì do sức bản nguyện đã sinh về phương Nam, vượt qua 10 cõi Phật tính từ cõi Phật này, đến thế giới tên là Saṃkarṣaṇa - Hút Lại Hợp Nhất. Ở đó, loài người có tuổi thọ 80 năm, tâm chuyên chú vào các gốc bất thiện, hung bạo, tay nhuốm máu, chìm đắm trong tội ác, không có tâm từ đối với tất cả chúng sinh, không biết ơn mẹ, không biết ơn cha, và không có nhận thức về sự sợ hãi cảnh giới đời sau.
Do sức bản nguyện, vị Bồ Tát Đại Bi, Đại Sa-môn ấy tái sinh vào một gia đình tiện dân (caṇḍāla-kula) trong cõi Phật Saṃkarṣaṇa. Ngài có thân thể rất cao lớn, sức mạnh phi thường, tốc độ nhanh nhẹn, trí nhớ siêu việt, trí tuệ sắc bén, và khả năng vận động vô cùng mau lẹ. Ngài, với sức mạnh kiên cố, tập hợp chúng sinh và nói rằng:
Này các ngươi, nếu các ngươi từ bỏ việc lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục cho đến tà kiến, thì ta sẽ để cho các ngươi sự sống và sẽ ban các phương tiện sinh sống. Nếu các ngươi không từ bỏ, thì ta sẽ lấy đi mạng sống của các ngươi và sẽ lập tức hành động.
Bấy giờ, các chúng sinh ấy chắp tay mà thưa rằng:
“Chúng con từ nay, theo lời của Ngài, lập nguyện từ giờ phút này cho đến trọn đời, sẽ từ bỏ việc lấy của không cho cho đến tà kiến.”
Vị tiện dân lực sĩ ấy (bala-caṇḍālaḥ) liền đến tâu trình với vua hoặc các quan quân của vua rằng:
“Ta cần phương tiện sinh sống — có thể là thức ăn, đồ uống, món ăn khô, món ăn nấu, thức uống, y phục, giường nệm, hương thơm, vàng, vàng ròng, ngọc maṇi, ngọc trai, ngọc bích, ốc quý, đá quý, bạc, hoặc các loại vàng bạc châu báu khác; xin hãy cho ta thật nhiều những phương tiện sinh sống này.”
Vị tiện dân lực sĩ ấy đã làm cho chúng sinh, trọn đời, an trụ vào 10 con đường thiện nghiệp. Nhờ đó, loài người ấy đã được tuổi thọ lên đến 500 năm.
Và khi vị vua ở đó qua đời, các đại thần đã làm lễ quán đảnh xưng đế cho vị tiện dân lực sĩ ấy, lập ông lên ngôi, và đặt tên là Puṇyabala - Sức Mạnh Công Đức sau khi đã được cải hóa.
Lại nữa, này thiện nam tử, vua Sức Mạnh Công Đức chẳng bao lâu sau đã cai trị lãnh thổ ấy, và với sức tinh tấn kiên cố cùng sức dũng mãnh đã cai trị lãnh thổ thứ hai. Cho đến khi vua Sức Mạnh Công Đức chẳng bao lâu sau trở thành vị vua chuyển luân thánh vương có sức mạnh cai trị khắp toàn cõi Diêm-phù-đề (jambūdvīpa).
Và kể từ khi vua Sức Mạnh Công Đức nhận lãnh vương quyền khắp toàn cõi Diêm-phù-đề, thì sau đóchúng sinh đã được khiến cho, đưa vào và an lập trong sự từ bỏ sát sinh. Cũng như vậy, từ việc không lấy của không cho, cho đến việc từ bỏ tà kiến, họ được khiến cho và được an lập trong chánh kiến. Tùy theo tâm nguyện, chúng sinh được khiến cho, đưa vào và an lập trong ba thừa.
Bấy giờ, vua Sức Mạnh Công Đức, sau khi an lập chúng sinh ở Diêm-phù-đề vào 10 con đường nghiệp lành và hướng dẫn vào ba thừa, đã truyền lệnh khắp Diêm-phù-đề: “Bất kỳ ai là người xin ăn, cần thức ăn cho đến cần châu báu, tất cả hãy đến; ta sẽ ban cho mọi sự bố thí”.
Sau đó, vào một thời gian khác, chúng sinh khắp Diêm-phù-đề, đã đến và xin vua Sức Mạnh Công Đức. Và vua Sức Mạnh Công Đức, từ đó, đã ban cho nhiều loại bố thí.
Lúc ấy, có một người tu khổ hạnh tên là Pāṃśughoṣa - Âm Thanh Bụi Bặm, đến gần vua Sức Mạnh Công Đức và nói rằng: “Nếu ngài, thưa đại vương, xả bỏ mọi loại, làm bố thí lớn, mong cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nếu ngài, thưa đại vương, có thể làm tròn tâm nguyện của ta, thì ngài, thưa đại vương, sẽ trở thành ngọn đèn của thế gian, là bậc Chiến Thắng Trí”.
Vua hỏi: “Ngươi cần điều gì?”
Người tu khổ hạnh tên Âm Thanh Bụi Bặm nói: “Ta, thưa đại vương, mong muốn đạt được chú thuật, thành tựu địa vị Trì Minh vidyādhara, để đạt được sức mạnh có thể tiêu diệt các vị thần khi xảy ra trận đại chiến. Vì vậy, ta, đứng trước mặt ngài, xin thỉnh cầu dùng da của một người đàn ông còn sống và dùng đôi mắt của người ấy”.
Bấy giờ, này thiện nam tử, vua Sức Mạnh Công Đức suy nghĩ như sau:
Ta đã đạt được vương quyền của vua Chuyển luân thánh vương. Số lượng chúng sinh được ta an lập vào 10 con đường nghiệp lành và được hướng dẫn vào ba thừa đã vượt quá sự tính đếm. Lại nữà, ta đã ban cho vô lượng sự bố thí. Và nhờ vị thiện tri thức này, từ nơi thân thể vốn là không tinh chất, ta lấy ra tinh chất.
Vua Sức Mạnh Công Đức nói:
“Hãy hoan hỷ, ta ban cho ngươi con mắt bằng thịt này; nhờ đó ta sẽ được con mắt pháp vô thượng). Ta ban cho ngươi tấm da của chính ta, với tâm hoan hỷ thanh tịnh; nhờ đờ ta sẽ đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
Bấy giờ, này thiện nam tử, vua Sức Mạnh Công Đức dùng tay phải mà lấy ra cả hai con mắt, trao cho người tu khổ hạnh, rồi với khuôn mặt đẫm máu, và nói rằng: “Hãy lắng nghe ta, này các vị trời, thần Dạ-xoa, các bậc đại thần thông, và tất cả những ai là loài người, A-tu-la, cũng như các loài hữu tình khác đã đến đây, những kẻ bay trên hư không, những kẻ ở trên mặt đất, những loài người: vì sự giác ngộ Tỉnh Thức, ta đã thực hiện sự bố thí thù thắng, ta sẽ đạt được cảnh giới an tịnh, ta sẽ cứu độ các chúng sinh và đặt họ nơi bờ kia của biển khổ luân hồi dữ dội, trong cảnh giới Vô Thượng Niết-bàn an lành, hoàn toàn dập tắt ngọn lửa sinh diệt cháy trong tâm thức, an trú sự tịch tĩnh tuyệt đối”.
Ngài lại nói: “Nếu ta sẽ chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì trong suốt thời gian ấy, mạng căn của ta chớ có bị chấm dứt, chớ để trí nhớ của ta tiêu mất, và chớ để sự hối tiếc phát sinh, cho đến khi sức mạnh thần chú trì minh của người tu khổ hạnh này chưa thành tựu”.
Ngài nói: “Hãy nhận lấy tấm da này”.
Và, này thiện nam tử, Âm Thanh Bụi Bặm – người tu khổ hạnh – đã cầm lấy lưỡi gươm bén rồi, từ nơi thân thể của vua đang đứng yên chịu đựng, cắt bỏ tấm da, rồi mang lấy tấm da ấy, và thành tựu chú thuật trì minh. Khi ấy, suốt bảy ngày, mạng căn của vua Sức Mạnh Công Đức không bị đoạn diệt, trí nhớ không mất, cũng không cảm thọ sự đau khổ ấy, và ngay cả một khoảnh khắc cũng không khởi sự hối tiếc.
Này thiện nam tử, các ông nghĩ sao? Có phải vào thời ấy, trong lúc ấy, người được gọi là Đại Bi Mahākāruṇika là một người khác chăng?
Không nên thấy là người khác, mà chính ta vào thời ấy, trong lúc ấy, là vị được gọi là Đại Bi - Mahākāruṇika, cha của đức Thế Tôn Tạng Ngọc Quý Như Lai.
Đây là lần phát tâm đầu tiên của ta, nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và với lần phát tâm đầu tiên ấy, vô số chúng sinh đã được ta an lập vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đây là lần đầu tiên ta có tâm an hùng dũng mãnh và làm việc của bậc anh hùng dũng mãnh. Rồi do nguyện lực, ngay tại đó ta mệnh chung và tiếp tục sinh lại ở cõi Phật Hút Lại Hợp Nhất ấy, tái sinh trở lại vào một gia đình tiện dân khác, thực hiện lần thứ hai tâm anh hùng dũng mãnh và làm việc anh hùng dũng mãnh.
Khi ấy, ta ở trong các dòng họ thuộc tầng lớp tiện dân, hướng dẫn chúng sinh vào điều thiện bằng chính sức mạnh và dũng lực quả cảm của mình, cho đến khi đạt được ngôi vua Chuyển luân thánh vương. Khắp cõi Diêm Phù Đề khi ấy, mọi sự tranh chấp, nhiễu loạn và cấu uế đều đã được dập tắt, và tuổi thọ của dân chúng được tăng trưởng.
Đây cũng là lần đầu tiên ta không những xả bỏ thân mạng, mà ta còn xả bỏ chính đôi mắt của mình, và cả việc xả bỏ tấm da của mình nữa.
Rồi tại đó ta mất thân ấy và sinh trở lại ngay trong cõi Phật Hút Lại Hợp Nhất ấy, ở đại châu thứ hai, ta tiếp tục tái sánh vào gia đình thuộc dòng họ tiện dân caṇḍāla. Ở tại đó, với dũng lực và tinh tấn kiên cố, ta đã hướng dẫn chúng sinh vào các nghiệp lành, cho đến khi đạt được ngôi Chuyển luân thánh vương.
Khi các đức Phật thuở quá khứ, lúc thực hành lối sống Bồ Tát dẫn đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, các Ngài không thúc đẩy bằng sự sợ hãi, nghĩa là dựa vào sự đe doạ, giết chóc, sát hại hay hình phạt, cũng không hiển bày sự sợ hãi đối với người khác, và cũng không an lập chúng sinh vào Thanh Văn thừa hay Độc Giác Phật thừa.
Vì ý nghĩa ấy, cõi Phật của các đức Phật Thế Tôn có tâm nguyện đầy đủ viên mãn đều trở thành hoàn toàn thanh tịnh.
Và trong các cõi Phật ấy không có điều gọi là tội lỗi, không có việc phải thọ học, không nghe thấy lời thô ác, và không có âm thanh bất thiện. Ngoài ra, với tiếng Pháp, cõi Phật ấy trở nên rõ ràng với âm thanh lìa mọi lời khó chịu, không ưa nghe. Ở đó, chúng sinh được tự do làm những gì họ muốn, và trong đó không có sự xuất hiện của việc tuyên bố danh nghĩa về Thanh Văn thừa hay Độc Giác Phật thừa.
Và do bởi ta, trong các đại kiếp nhiều như số cát sông Hằng, ở các cõi không có Phật thuộc năm uế trược, vì sợ lời thô bạo và ác độc của ta, sợ bị ta giết và sát hại, sợ các hình phạt hà khắc của ta, mà chúng sinh đã được ta an lập vào việc từ bỏ sát sinh, cho đến khi được an lập, hướng dẫn và đặt vững trong ba thừa. Do quả dư nghiệp còn lại chưa dứt ấy, nên hiện tại cõi Phật của ta bị nhiễm ô như vậy, đầy những chúng sinh tập trung vào các căn bản bất thiện, tràn ngập bởi tiếng bất thiện. Và ta vẫn thuyết pháp bằng ba thừa.
Và như trước đây ta đã lập nguyện, ta đã thọ nhận một cõi Phật đúng như vậy. Và những chúng sinh đáng được giáo hóa mà ta đã thâu nhận, thì ta đã thực hành lối sống Tỉnh Thức với chính sức mạnh và tinh tấn như thế. Và hạt giống đã được ta gieo như thế nào, thì cõi Phật của ta được thành tựu cũng như vậy. Cõi Phật đúng như nguyện lực mà ta đã lập.
Toàn thể vũ trụ trong quá khứ, hiện tại, và tương lai chỉ có 6 vị Bồ Tát phát tâm Đại Bi và thực hành lối sống Bồ Tát như đức Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai lúc lần đầu tiên phát tâm Tỉnh Thức
Tóm lược mà nói, này thiện nam tử, ta sẽ giảng về Bố Thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia, và cách ta thực hiện như thế nào, khi thực hành lối sống Bồ Tát, cách ta xả bỏ bố thí đã được thực hiện viên mãn. Chưa từng có một Bồ Tát nào trước đây thực hành sự xả bỏ bố thí như vậy, và cũng sẽ không có một vị Bồ Tát nào trong tương lai thực hành lối sống Bồ Tát mà xả bỏ bố thí như vậy, như ta đã xả bỏ, ngoại trừ sáu bậc thiện nhân.
Có một bậc thiện nhân tên là Dharaṇidatta - Ban Tặng Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī, ở phương Nam, trong thế giới có tên Sarvaghoṣā - Tất Cả Âm Thanh, sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và trở thành đức Như Lai hiệu là Saṃkaramardārcis - Ánh Sáng Áp Chế Loạn Động. Ngài sẽ thuyết pháp cho chúng sinh có thọ mạng 100 năm, và đến ngày thứ bảy sẽ nhập Niết-bàn vô dư.
Lại nữa, có vị Bồ Tát tên là Vīryasaṃcodana - Khích Lệ Năng Lực Tinh Tấn, ở phương Đông, trong thế giới tên Ajayavatī - Bất Khả Chiến Bại, đã thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, làm Phật sự trong hội chúng có thọ mạng 100 năm, và đã nhập Niết Bàn. Trải qua những kiếp dài nhiều như số cát sông Hằng, kể từ khi đức Như Lai ấy nhập Niết-bàn vô thượng, thì cho đến nay xá-lợi của Ngài, bậc Đại Bi ấy, vẫn đang làm Phật sự tại các cõi không có Phật thuộc năm uế trược.
Và cũng có vị Bồ Tát tên là Sārakusumita - Hoa Tinh Tuý Nở Rộ, với tâm định kiên cố và tinh tấn bền chắc, cùng sự xả bỏ với sức mạnh và tốc lực, đang thực hành lối sống Bồ Tát. Sau khi trải qua 10 đại kiếp nhiều như số cát sông Hằng, ở phương Bắc sẽ xuất hiện cõi Phật tên là Sahetusaṃkarṣaṇa - Hấp Dẫn Liên Kết Có Nguyên Nhân Đi Cùng Nhau, thuộc thế giới đầy đủ năm uế trược, tại đó vị thiện nhân sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trở thành đức Thế Tôn hiệu là Sahetukṛṣṇavidhvaṃsanarāja - Vua Huỷ Diệt Đen Tối Ám Chướng Có Nguyên Nhân Đi Cùng Nhau Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Vị Bồ Tát tên Prajñārciḥsaṃkopitadaṣṭa -Ngọn Lửa Tuệ Giác Prajñā Cắn Nát Cơn Giận Giữ, là một bậc thiện nhân, sau khi mãn một đại kiếp, sẽ xuất hiện ở phương Tây, trong thế giới tên Bhairavatī - Kinh Hoàng, thuộc năm uế trược, nơi chúng sinh có thọ mạng 100 năm. Ngài sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và trở thành đức Thế Tôn hiệu là Sūryagarbhārcivimalendra - Bậc Thống Trị Tinh Khiết Thanh Tịnh Ngọn Lửa Rực Cháy Từ Trong Lòng Mặt Trời Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.
Còn có một vị tên là Saṃrocana - Chiếu Sáng Hợp Nhất Toàn Diện, sau vô số kiếp đã được chỉ định, sẽ ở phương Bắc, trong thế giới tên Kṣāravarcanikuñjitā - Ánh Sáng Uốn Lượn Tan Chảy, thuộc năm uế trược, trong kiếp có sự chấn động vì ác trược dữ dội. Chính vị Saṃrocana - Chiếu Sáng Hợp Nhất Toàn Diện ấy, do sức bản nguyện trước, nơi cõi Phật Ánh Sáng Uốn Lượn Tan Chảy, giữa hội chúng có thọ mạng 50 năm, sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và trở thành đức Thế Tôn hiệu là Acintyarocana - Ánh Sáng Vượt Ngoài Suy Nghĩ Tưởng Tượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn. Ngài ấy, do sức bản nguyện trước, sẽ thực hiện trọn vẹn Phật sự trong 10 năm, rồi nhập Niết-bàn. Ngay trong ngày ấy, Chánh pháp của đức Như Lai ấy sẽ diệt mất, và 10 năm sau đó cõi Phật ấy sẽ trở thành cõi không có Phật.
Rồi sau đó, vị Bồ Tát tên Prahasitabāhu - Người Có Cánh Tay Tươi Cười (Hỷ Tý) sẽ ở cõi Phật Kṣāravarcanikuñjita - Ánh Sáng Uốn Lượn Tan Chảy, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trở thành đức Thế Tôn Vairocanadharma - Pháp Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.
Ngài ấy cũng thực hiện trọn vẹn Phật sự trong 10 năm, rồi nhập Niết-bàn vào cảnh giới Niết-bàn không còn dư y. Sau khi Ngài nhập Niết-bàn, nhờ sức bản nguyện trước, Chánh pháp sẽ tồn tại trong bảy năm.
Ngay lúc đó, có hai vị thiện nhân, đã nhận được thọ ký trước và đã nếm trải hương vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, liền ở trước đức Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài, với tâm hoan hỷ, an lạc và hớn hở, từ dưới đất bay lên hư không với chiều cao bảy cây thốt nốt ta-la, chắp tay đứng yên, rồi bằng một giọng dùng kệ tụng mà thưa với đức Thế Tôn rằng:
Thưa đức Phật Virocana,
Ngài là Đấng Mặt Trời Toàn Giác,
Vượt lên trên đỉnh núi meru,
Chiếu sáng khắp toàn cõi thế giới,
Đấng có mắt hoàn toàn thanh tịnh,
Đã trừ sạch tất cả nhiễm ô,
Bậc Dẫn đạo, ánh sáng soi đời,
Bậc Thiện Thệ — con xin đảnh lễ.
Qua vô lượng số kiếp quá khứ,
Được nuôi dưỡng bởi sức tinh tấn,
Ngài tìm cầu Tỉnh thức Tối Thượng,
Đã cúng dường vô biên đức Phật,
Mà các bậc Đạo Sư Toàn Giác,
Cũng chưa từng thọ ký cho Ngài.
Ngài đã dứt bỏ mọi tham ái,
Tâm Ngài được hoàn toàn giải thoát,
Hoàn thành Phật sự khắp thế gian,
Giảng pháp cho ai mất chánh đạo,
Cứu chúng sinh khỏi biển sinh tử.
Chúng con xuất gia trong giáo pháp,
Của đức Phật Đại Giác Tự Nhiên,
Thọ giới luật Như Lai đã dạy,
Và chúng con cũng đã tu học,
Cách nhiếp phục các căn giác quan,
Nguyện luôn được gần gũi bên Ngài.
Chúng con không nương tựa tham muốn,
Của đời sống và các nghiệp báo,
Đã vâng theo lời bậc Đạo Sư,
Và chuyên tâm lắng nghe Chánh pháp,
Để đạt được địa vị thọ ký,
Và mong đức Chiến Thắng thọ ký,
Cho chúng con Vô Thượng Chánh Giác.
Nhân duyên hướng dẫn của sáu vị Bồ Tát phát tâm Tỉnh Thức
Khi ấy, đức Thế Tôn nói rằng:
Này thiện nam tử, hai vị này là những vị chưa phát khởi tâm Tỉnh Thức; hai vị ấy là Saṃrocana - Chiếu Sáng Hợp Nhất Toàn Diện và Prahasitabāhu - Người Có Cánh Tay Tươi Cười.
Bốn vị kia là Dharaṇidatta - Ban Tặng Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī, Vīryasaṃcodana - Khích Lệ Năng Lực Tinh Tấn, Sārakusumita - Hoa Tinh Tuý Nở Rộ và Prajñārciḥ-saṃkopitadaṣṭa - Ngọn Lửa Tuệ Giác Prajñā Cắn Nát Cơn Giận Giữ. Sáu vị thiện nhân này đã được Ta lần đẩu tiên nhiếp thọ vào con đường hướng đến Tỉnh Thức. Các vị hãy lắng nghe.
Thuở xưa, này thiện nam tử, trong quá khứ đã trải qua vô lượng vô biên a-sam-khê kiếp, khi ấy vào thời đó cõi Phật này có tên là Arajameru-jugupsita - Núi Meru Bụi Bặm Ghê Tởm.
Bấy giờ, ta đang ở trong một đại kiếp, khi dân chúng có tuổi thọ 100 năm, trong giáo pháp của đức Thế Tôn Gandhapadma - Hương Hoa Sen Padma Như Lai — lúc ấy chỉ còn là sự mô phỏng của Chánh pháp,
Ta, này thiện nam tử, vào thời đó, là vị vua Chuyển luân Thánh vương tên Durdhana - Người Xấu Ác Khó Chịu Khắc Nghiệt, thống lĩnh toàn cõi Diêm Phù Đề, có 1.000 người con, và chính ta đã hướng dẫn họ vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Về sau, họ cũng xuất gia trong giáo pháp của đức Thế Tôn Hương Hoa Sen Padma Như Lai, và phần lớn đã làm rạng rỡ giáo pháp ấy, trừ ra sáu người con không xuất gia và cũng không muốn phát khởi tâm Tỉnh Thức.
Ta đã nhiều lần khuyên nhủ sáu người con đó rằng:
Ý của các con là gì khi các con không phát tâm Tỉnh Thức và cũng không xuất gia?
Họ đáp:
Chúng con không xuất gia.
Vì sao ư?
Vì nếu vào thời kỳ mạt pháp khi chỉ còn hình thức của Chánh pháp mà xuất gia, sẽ không đủ khả năng để tu trì trọn vẹn giới uẩn, lại không có đủ bảy món báu, chìm đắm trong bùn lầy luân hồi sinh tử, lại khó có thể được hưởng phước cõi trời và người, thường xuyên trôi lăn trong ba đường ác, nếu không tuân giữ theo pháp học của Phật.
Vì nghĩa ấy, chúng con không xuất gia.
Ta lại hỏi họ rằng:
Vì sao các con không phát tâm hướng đến Tỉnh Thức?
Họ đáp:
Nếu vua cha ban cho chúng con toàn bộ cõi Diêm Phù Đề này, thì chúng con sẽ phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, này thiện nam tử, ta nghe xong với tâm hết sức hoan hỷ, liền suy nghĩ rằng:
Ta đã khiến cho tất cả nhân loại ở cõi Diêm Phù Đề này an trụ nơi ba quy y, đã hướng dẫn họ thực hành Tám Thánh đạo và giữ giới Bố-tát upoṣadha, đã đưa họ vào ba thừa. Vậy nay ta nên chia cõi Diêm Phù Đề này thành sáu phần và ban cho sáu người con; sau khi cho rồi, sẽ khiến họ phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; còn ta thì sẽ xuất gia.
Nghĩ như vậy rồi, ta chia toàn bộ Diêm Phù Đề thành sáu phần và trao cho các con. Ta thì xuất gia. Còn sáu vị vua trên cõi Diêm Phù Đề ấy thì sinh ra các loại xung đột, tranh chấp, chiến đấu, bệnh tật, và bị chấn động bởi sự tấn công của quân địch cùng nhiều điều tai hại khác.
Do đó, khắp toàn cõi Diêm Phù Đề xảy ra nạn đói, cỏ cây không mọc, mưa không rơi xuống, lá, hoa, quả từ cây cũng không kết thành, các loại thảo dược và cỏ cũng không mọc, thú rừng và chim chóc thì bị tàn hại vì thân thể bị thiêu đốt bởi đói và khát.
Phát nguyện thành núi thịt để bố thí chúng sinh
Khi ấy, ta liền nghĩ:
Hiện giờ, ta phải thực hành sự xả bỏ thân mạng, lấy máu và thịt của chính mình để nuôi dưỡng chúng sinh.
Sau đó, ta rời bỏ tịnh xá, đi đến các vùng ở trung bộ, leo lên núi Daga-pāla, và phát nguyện rằng:
Như ta xả bỏ thân mạng này,
Ta vì nhân duyên lòng từ bi,
Không phải vì cầu nhân sinh thiên,
Chỉ vì lợi ích thế gian này,
Cùng chúng sinh, chư Thiên, nhân loại,
Nguyện thân ta cao như ngọn núi.
Như ta bỏ sắc thân quý báu,
Không phải vì ngôi vị Thiên Đế,
Thành śakra, vua của chư thiên,
Không phải vì Chúa Trời Phạm Thiên,
Cũng không phải ngôi vị ma vương,
Chỉ vì làm lợi ích cõi trời,
Nguyện thân ta máu thịt thật nhiều.
Hãy nghe đây, chư long, loài người,
Cùng chư thiên, các thần dạ xoa,
Và các vị thần devatā,
Hiện cư ngụ ở trên núi đá.
Lòng thương xót của ta khởi lên,
Chỉ vì nhân duyên với chúng sinh,
Nguyện nuôi dưỡng các loài hữu tình,
Bằng máu thịt từ chính thân ta.
Khi ấy, do Ta đã phát nguyện, ba cõi đều rung động, đại địa chấn động, núi meru lay chuyển, các hàng chư thiên khóc than, bấy giờ ta liền để cho thân mình từ đỉnh núi Dagapāla rơi xuống.
Do sức của lời nguyện, thân Ta trở thành to lớn bằng núi, bề ngang 100 yojana (1.200km), bề cao 1 yojana (12km); đến nỗi loài người, thú và chim đều kéo đến để ăn thịt và máu của Ta.
Này thiện nam tử, thân ấy của Ta, dù bị chúng sinh ăn dùng, mỗi ngày lại tăng trưởng, trở thành bề ngang 100.000 yojana (1 triệu 200 ngàn km), bề cao 1.000 yojana (12.000km). Khắp nơi, đầu người hiện ra, có tóc, tai, mắt, mũi, môi, răng đầy đủ, kèm theo lưỡi, lại có hàng trăm ngàn miệng hiện ra.
Và các miệng ấy phát ra tiếng người rằng:
“Này các chúng sinh, hãy nhận lấy điều mình cần, hãy ăn thịt, uống máu, lấy mắt, lấy tai, mũi, tóc, môi, răng, lưỡi.
Vì mục đích gì, vì điều gì, tùy theo mức cần, khi đã được nuôi dưỡng đầy đủ thân thể và mãn nguyện, hãy phát khởi tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc theo Thanh Văn thừa, hoặc theo Độc Giác Phật thừa.
Sự hưởng dụng này của các ngươi sẽ không bị hao tổn, và đức tin của các ngươi sẽ không mất đi. Mong rằng các ngươi chớ sớm gặp sự đoạn tận của mạng sống.”
Và những chúng sinh thông tuệ ở nơi ấy, có kẻ phát khởi tâm theo Thanh Văn thừa, có kẻ hướng đến Độc Giác Phật thừa, có kẻ phát khởi tâm nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lại có kẻ phát tâm cầu sinh vào cõi trời hoặc loài người. Có kẻ ăn thịt, có kẻ uống máu, có kẻ lấy mắt, có kẻ lấy tai, có kẻ lấy mũi, có kẻ lấy môi, có kẻ lấy răng; lấy xong thì ra đi.
Do sức của lời nguyện, những phần thân thể ấy lại hiện ra, thịt chẳng hề giảm bớt, cũng chẳng bị hao tổn.
Cho đến 10.000 năm, Ta đã nuôi dưỡng toàn thể người, dạ-xoa, thú và chim ở khắp châu Diêm-phù-đề, bằng chính thân thể của Ta.
Và trong khoảng 10.000 năm ấy, số mắt mà Ta đã bỏ ra nhiều như số cát của sông Hằng. Lượng máu Ta đã bỏ ra bằng với nước của bốn đại dương. Lượng thịt Ta đã bỏ ra bằng với 1.000 núi Sumeru. Lưỡi Ta bỏ ra lớn bằng núi cakravāḍa. Tai Ta bỏ ra lớn bằng núi yugandhara-meru. Mũi Ta bỏ ra lớn bằng núi vipulā-sumeru. Răng Ta bỏ ra lớn bằng núi gṛdhrakūṭa - Linh Thứu. Toàn bộ cõi Phật này, Ta đã bỏ ra da của mình, với lượng đủ để che phủ toàn cõi ấy.
Này thiện nam tử, hãy thấy rằng suốt 10.000 năm, Ta đã bỏ ra vô lượng, vô số và vô biên lần xả bỏ thân mình chỉ trong một đời. Như thế, vô lượng vô số vô biên chúng sinh đã được Ta nuôi dưỡng, và trong suốt một sát-na tâm, Ta chưa từng khởi một niệm hối tiếc.
Và khi ấy, Ta đã tiếp tục phát lời nguyện như vầy:
Nếu Ta sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì nguyện này của Ta sẽ được viên mãn. Như trước kia Ta ở một châu đã nuôi dưỡng tất cả chúng sinh bằng thân thể của mình, thì cũng vậy trong cõi Phật này, vốn bị loài người và núi Me-ru làm chướng ngại, trải qua số năm bằng với 1000 lần số cát sông Hằng, khắp tất cả các châu, thân thể của Ta với hình dạng như vậy sẽ hiện ra.
Như trước kia ở một châu, suốt 10.000 năm ấy, Ta đã nuôi dưỡng tất cả chúng sinh bằng thịt, máu, da, mắt, tai, mũi, môi, lưỡi và tóc của Ta, rồi khiến họ hướng vào ba thừa, thì cũng vậy, Ta sẽ nuôi dưỡng cả loài người, dạ-xoa, la-sát, tất cả loài súc sinh, những loài nào dùng thịt và máu làm thức ăn, các loài dạ-xoa riêng biệt và cho đến cả chúng sinh ở cõi âm Diêm-ma.
Và như Ta ở một cõi Phật đã nuôi dưỡng tất cả chúng sinh bằng thân thể của mình, thì cũng vậy ở mười phương, trong những cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, Ta sẽ dùng thịt, máu, da, mắt cho đến lưỡi, với hình dạng thân thể như vậy, trải qua số đại kiếp nhiều như số cát sông Hằng, ở mỗi một cõi Phật, lấy thân mạng của mình mà nuôi dưỡng chúng sinh, sau khi đạt được thân thể có hình dạng như vậy.
Nguyện rằng các đức Phật Thế Tôn ở mười phương, trong các cõi Phật khác đang chuyển bánh xe chánh pháp, đang trụ thế, đang duy trì và giảng dạy chánh pháp, sẽ xem Ta là kẻ thất tín nếu Ta chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà sự xả thân này không thành tựu. Nguyện rằng khi còn luân chuyển trong luân hồi sinh tử, Ta sẽ không nghe tiếng Phật, cũng không nghe tiếng Pháp, tiếng Tăng, không tiếng Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia, không nghe tiếng uy lực của ma, không nghe tiếng biện tài vô úy không sợ hãi, và cho đến ngay cả tiếng “thiện” cũng không nghe trong luân hồi sinh tử, nguyện mãi mãi sinh vào địa ngục Vô Gián avīci, nếu việc xả thân của ta với hình thức như vậy để nuôi dưỡng chúng sinh không thành tựu, và nếu lời nguyện của Ta với hình thức như vậy không được viên mãn như nguyện vọng mà Ta đã nghĩ.
Và ở trong cõi Phật này, khắp các châu, tại mỗi một châu, Ta đã xả thân và nuôi dưỡng chúng sinh bằng thịt và máu của mình, thì cũng vậy, ở mười phương, trong các cõi Phật khác nhiều như số cát sông Hằng, chúng sinh cũng được Ta nuôi dưỡng bằng thân thể của chính Ta và bằng thịt máu của chính Ta.
Hãy thấy, này thiện nam tử, sự viên mãn bố thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia nơi Như Lai qua việc xả bỏ thân thể. Chính Ta, qua sự nối tiếp hành trì, khi ấy đã xả bỏ đôi mắt. Số mắt ấy, nếu gom lại ở châu Diêm-phù-đề này, sẽ nhiều đến tận cõi trời Ba Mươi Ba.
Này thiện nam tử, đây chính là sự tóm lược về lối sống bố thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia qua việc xả thân của Như Lai.
Phát nguyện thành trưởng đoàn thương buôn để làm đầy đủ châu báu cho chúng sinh
Lại nữa, này thiện nam tử, sau đó, khi vô lượng kiếp đã qua, cõi Phật này đổi tên là candravidyuta - Mặt Trăng Điện Quang; cõi ấy cũng vẫn còn năm thứ cấu uế. Khi ấy tại châu Diêm-phù-đề, Ta trở thành vị vua tên là pradīpa-pradyota - Quang Đăng - Ngọn Đèn Chiếu Sáng, là vua Chuyển Luân Thánh Vương đầy sức mạnh. Và Ta đã khiến tất cả chúng sinh ở châu Diêm-phù-đề hướng về các thiện pháp, như đã nói ở trước.
Sau đó, Ta đi ra khỏi khu vườn để xem đất nước mình. Tại đó, Ta thấy một người đàn ông, rồi sau đó, thấy ông ta bị trói chặt ở cánh tay. Ta liền hỏi các đại thần: “Người này đã làm việc gì?”
Các đại thần trả lời: “Người này đã phạm tội với đức vua. Theo luật, mỗi năm khi người này thu hoạch cỏ và lúa, thì phải nộp sáu phần cho đức vua, giống như những gia đình khác vốn nộp thuế vì họ đang sống trong các thành, làng, quận, huyện và lãnh địa của vua, và mưu sinh bằng công việc; nhưng người này lại không nộp.”
Ta liền bảo họ: “Hãy thả người này, đừng dùng sức mạnh để lấy tài sản hay lúa gạo của bất cứ ai.”
Nhưng họ nói: “Tâu đức vua, chẳng ai vui lòng mà nộp, vì mỗi ngày đều phải dùng đồ ăn uống cho các phi tần và cung nữ, cũng như cho con trai và con gái của vua. Tất cả đều bị lấy từ họ, nên không ai vui lòng mà dâng cả.”
Khi ấy, Ta vô cùng buồn bã và suy nghĩ rằng: “Ta sẽ trao cả châu Diêm-phù-đề này cùng vương quyền cho ai đây?”
Ta có 500 người con trai, sau khi khiến họ hướng về Tỉnh Thức, Ta sẽ chia châu Diêm-phù-đề này thành 500 phần và trao cho các con trai. Còn Ta thì đến rừng tu, sống đời xuất gia theo hạnh tiên nhân ẩn sĩ và tu tập phạm hạnh với lối sống trong sạch thanh tịnh. Tại một khu rừng, dưới gốc câysung uḍumbara, không xa lắm về phía nam của biển lớn, Ta sống bằng thức ăn từ rễ cây và quả non, hành thiền, và dần dần chứng đắc năm loại thần thông.
Lúc bấy giờ, có 500 thương nhân ở châu Diêm-phù-đề đi xuống biển lớn. Họ từ đó đã thu được một khối châu báu rất lớn. Trong số đó, có vị trưởng đoàn buôn tên là Candra - Mặt Trăng, người may mắn và sáng trí, đã tìm được viên ngọc như ý cintāmaṇi. Từ vùng đất ngọc quý ấy, ông đem theo khối châu báu giàu có và viên ngọc như ý cintāmaṇi, rồi khởi hành lên đường. Khi đó, đại dương nổi sóng dữ, loài rồng kinh hoảng, các vị thần cư ngụ tại đó kêu khóc. Khi ấy, có một vị tiên ẩn sĩ tên là Āśvasta - An Ổn, là một vị Bồ Tát, do sức nguyện trước kia mà sinh đến nơi này. Vị Đại Bồ Tát ấy đã cứu đưa đoàn buôn ấy ra khỏi biển lớn một cách an lành và bình yên. Nhưng có một quỷ thần thuộc loài La-sát rākṣasa rất độc ác, là kẻ đối địch, rình chờ khi xuống bờ, tìm khe hở, và bám theo phía sau.
Do đó, trong bảy ngày, gió và mưa dữ dội trút xuống. Vì thế, các thương nhân bị lạc đường, vô cùng sợ hãi, kêu la, khóc lóc, than vãn với giọng lớn, cầu khẩn các vị thần, cho đến Thần Śiva và Thần Biển Varuṇā, rồi kêu khóc cha mẹ và con cái thân yêu. Khi ấy, Ta nghe được bằng thiên nhĩ, liền đến nơi đó và an ủi các thương nhân: “Ta đã đến, đừng sợ. Ta sẽ chỉ đường cho các người, để các người đến được châu Diêm-phù-đề một cách an lành và bình yên”.
Khi ấy, Ta lấy vải lụa thấm dầu, quấn quanh bàn tay của mình, rồi châm lửa đốt, và phát lời chân thật: “Nếu trong 36 năm, Ta đã làm cho tâm ý của 84.000 rồng thần và Dạ-xoa thành thục, và đã khiến họ không thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, bằng việc tu tập bốn lối sống Phạm hạnh, sống trong rừng với thức ăn từ rễ cây và quả non vì lợi ích và an lạc của chúng sinh; thì nhờ sự thật đó, nhờ lời chân thật đó và nhờ công đức thành tựu, nguyện cho bàn tay của Ta cháy sáng, và nguyện cho các thương nhân tìm được đường đi và đến được châu Diêm-phù-đề một cách an lành và bình yên”.
Trong suốt bảy ngày đêm, Ta đã giữ cho bàn tay của mình cháy sáng. Khi ấy, các thương nhân đã được đưa đến yên ổn tại châu Diêm-phù-đề. Tại đó, Ta đã phát nguyện rằng: “Khi nào châu Diêm-phù-đề trở nên thiếu thốn châu báu, thì khi ấy, nếu Ta chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện này của Ta sẽ được viên mãn: Ta sẽ làm trưởng đoàn buôn ở châu Diêm-phù-đề, bảy lần mang ngọc như ý cintāmaṇi trở về, và rải xuống những cơn mưa châu báu.
Không chỉ vậy, ở tất cả các châu trong cõi Phật này, cũng như tại mười phương trong các cõi không có Phật, đầy năm thứ uế trược, nhiều như số cát sông Hằng, Ta đều sẽ rải xuống châu báu, như đã nói ở trước.
Và quả thật, nguyện này của Ta đã được viên mãn: trong khoảng thời gian của số đại kiếp nhiều như số cát sông Hằng, Ta đã trở thành trưởng đoàn buôn, và tại các cõi không có Phật đầy năm thứ uế trược, nhiều như số cát sông Hằng, Ta đã rải xuống châu báu. Tại mỗi một châu, Ta bảy lần rải xuống những cơn mưa châu báu đủ loại. Nhờ đó, vô số chúng sinh đã được viên mãn ý nguyện và được dẫn vào ba thừa.
Hãy xem, này thiện nam tử, đây là công đức lành từ lối sống bố thí xả châu báu của Như Lai.
Phát nguyện chữa bệnh và chỉ dạy các phương tiện kiến thức cho tất cả chúng sinh
Lại nữa, này thiện nam tử, sau khi trải qua vô lượng kiếp, trong khoảng thời gian ấy, cõi Phật này có tên là Timira - Tối Ám. Khi ấy, trong kiếp có tên là Saṃtoṣaṇa - Thành Tựu, vào thời đủ năm thứ uế trược, trong thời kỳ loài người sống đến 5.000 năm, do sức phát nguyện, Ta đã sanh ở châu Diêm-phù-đề này) làm một vị Bà-la-môn tên là sūrya-māla-gandha - Hương Nhật Anh Lạc - Hương Vòng Chuỗi Mặt Trời, là người tụng đọc kinh Vệ-đà.
Khi ấy, chúng sinh phần nhiều chấp trước vào tà kiến thường còn, lòng nhiều sự đối địch và hung hăng, lại có đủ các mối tranh cãi và chống đối. Đối với họ, Ta đã dùng sức mạnh dũng mãnh mà chỉ bày giáo pháp, để họ có thể hướng đến duy thức hoàn toàn đối với các uẩn (skandha-prayoga), chỉ bày phương pháp quán sát chúng như các làng xóm và xứ sở trống vắng, không nương vào duyên bên ngoài, và phương pháp an trú trong quán niệm hơi thở vào và hơi thở ra (ānāpāna-smṛti-manaskāra) cùng với thấy rõ sự sinh khởi và diệt mất.
Những người ấy đã được dẫn dắt đem công đức căn lành phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chính Ta cũng đã thành tựu Năm Thần Thông. Và vào thời ấy, vô lượng vô số chúng sinh nhờ nghe lời dạy và sự giáo hóa của Ta mà thành tựu Năm Thần Thông.
Vô lượng vô số chúng sinh ấy đã bỏ hết đấu tranh, xung đột, thù hận, nương vào các khu rừng, sống bằng trái cây và rễ củ, tu tập thiền định cùng với bốn Phạm hạnh, trải qua ngày đêm.
Khi kiếp ấy sắp chấm dứt, nhờ những người ở phương Nam, toàn bộ châu Diêm-phù-đề được hưng thịnh rực rỡ. Các sự tranh chấp, chiến đấu, thù hận, xung đột, phân tranh, kiện tụng, tranh luận và cãi vã trong thời kỳ đen tối đều được dập tắt, những trận gió mưa trái thời đều yên lặng, và trên đất đai màu mỡ sung túc lại mọc lên các loại cỏ lúa.
Chỉ có điều là mọi người bị các thứ bệnh tật gây hại, do nghiệp xấu của kiếp ấy.
Khi ấy, Ta suy nghĩ như vầy: “Ta không thể dứt trừ bệnh tật này của chúng sinh.”
Rồi Ta tiếp tục khởi ý nghĩ này: “Chắc chắn Ta sẽ triệu tập Thiên Đế Śakra, vua của chư Thiên, Thiên Chúa Đại Phạm Thiên, các vị Hộ Thế Thiên Vương, cùng các vị Tiên cõi trời, Tiên loài rồng, Tiên Thiên Đế Śakrarṣa và Tiên loài người, để chỉ bày phương pháp y dược và các phương tiện chữa trị vì lợi ích của chúng sinh.”
Khi ấy, Ta dùng thần thông đi đến chỗ các vị Thiên Đế Śakra, Thiên Chúa Phạm Thiên, Hộ Thế Thiên Vương, các vị Tiên loài trời, Tiên loài rồng, Tiên Thiên Đế Śakrarṣī và Tiên loài người, để thưa trình.
Có một ngọn núi tên là ekaviḍapati - Núi Chúa Viḍa, tại đó triệu tập đại hội, ở chỗ gọi là viḍacarakamūrdhani - Khoảng Đất Trống Trên Đỉnh Cao Nhất Núi Viḍa, Ta đã chỉ bày phương pháp y học có công năng ngăn ngừa quỷ mị bhūta, hộ trì thân thể, điều hòa gió, mật và đàm. Nói tóm lược, đã làm cho vô lượng vô số chúng sinh được chữa khỏi bệnh tật.
Ở đó, Ta đã phát đại nguyện rằng: “Trong một ngày, Ta sẽ khiến cho vô lượng vô số chúng sinh được tuệ giác prajñā sáng tỏ, hướng vào ba thừa, đóng lại đường ác, thiết lập trên con đường lên trời, và dứt trừ cùng giải thoát nhiều loại bệnh tật.”
Như vậy, vô lượng vô số chúng sinh đã được ban cho ánh sáng tuệ giác prajñā, an trú trong an lạc. Do nhân quả công đức ấy, này thiện nam tử, nguyện ước của Ta đã được viên mãn.
Và khi ấy, trong một ngày, Ta đã đóng lại đường ác của vô lượng vô số chúng sinh, thiết lập họ trên con đường lên trời, vì mục đích chữa bệnh mà triệu tập các hội chúng Tiên loài trời và Dạ xoa, để vì lợi ích của chúng sinh mà tuyên giảng tại Khoảng Đất Trống Trên Đỉnh Cao Nhất Núi Viḍa trên cõi trời phương pháp thành tựu sức khỏe.
Cũng như vậy, tại cõi Phật Tối Ám và tất cả các châu, những việc lợi ích lớn lao đã được Ta thực hiện, và chúng sinh được thiết lập trên con đường lên trời. Chư Thiên, loài Rồng, Dạ xoa, loài người và các bậc Tiên đã được triệu tập, và nhờ họ mà vì lợi ích của chúng sinh các phương pháp tri thức đa dạng đã được tuyên bày.
Cũng như tại cõi Phật Tối Ám, như vậy ở mười phương trong các cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, vốn trống vắng không có Phật và thuộc năm uế trược, Ta đã thực hiện những việc lợi ích lớn lao như thế. Chúng sinh được Ta hướng dẫn vào ba thừa, được thiết lập trên con đường lên trời, các phương pháp tri thức đa dạng được tuyên bày trong thế gian, chúng sinh bệnh tật được giải thoát, và này thiện nam tử, nguyện ước lớn lao như thế của Ta đã được viên mãn.
Lại nữa, tại cõi Phật Tối Ám, ở tất cả các châu, những việc lợi ích lớn lao như vậy đã được Ta thực hiện đúng như nguyện đã phát.
Lại nữa, với trí tuệ vô thượng, ở mười phương, trong các cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, vốn trống vắng không có Phật và thuộc năm uế trược, tại mỗi một cõi Phật, ở tất cả các châu, những việc lợi ích lớn lao như vậy đã được Ta thực hiện, đúng như nguyện đã phát trước đây của Ta.
Này thiện nam tử, hãy xem tuệ giác prajñā tối thắng của Ta trong lối sống Bồ Tát; và đây chính là hạt giống của căn lành từ ba hạnh lành của Như Lai.
Hạnh Xả Bỏ Tất Cả và Phát Nguyện Thành Long Vương Cung Cấp Châu Báu
Cũng như vậy, vào thời kỳ chuyển tiếp giữa hai thời điểm, sau khi trải qua 1 a-sam-khê kiếp và còn nhiều hơn thế nữa, cõi Phật này đổi tên thành vicita-doṣa - Nhiều Tội Lỗi. Trong đại kiếp saṃśrayasa - Hoàn Toàn Nương Tựa đang diễn ra, cõi ấy vẫn thuộc về năm uế trược.
Ở phương Đông, trong một thế giới hành tinh với đầy đủ bốn châu tên là anupañcāśā - Hành Tinh Thuộc Hệ Sao Có Số Hiệu 50, có một châu Diêm-phù-đề tên là Va-đa đã tồn tại.
Tại đó, Ta vì muốn thành thục các chúng sinh mà giáng sinh làm vua Chuyển Luân Thánh Vương, là vị thống trị bốn châu, tên là Ambara - Vũ Trụ.
Tại đó, Ta đã khiến cho, an lập và đặt vững các chúng sinh vào 10 con đường thiện nghiệp; và cũng khiến cho, an lập, đặt vững họ vào ba thừa. Và Ta trở thành người bố thí tất cả, ban cho khắp mọi nơi.
Khi ấy, những người xin đến và thỉnh cầu nhiều loại châu báu, như là vàng, bạc, cho đến các loại ngọc lưu ly xanh lớn, ngọc phát ánh sáng trắng, ngọc phát ánh sáng xanh, ngọc phát quang lửa, ngọc phát ánh sáng mật ngọt, và các loại ngọc quý khiến tâm thanh tịnh. Những châu báu phong phú này đều được ban cho người xin.
Khi ấy, Ta hỏi các quan đại thần rằng: “Những châu báu này từ đâu mà xuất hiện?”
Họ thưa: “Các Long Vương ở dưới đất lâu dần chuyển động sẽ trồi lên những kho tàng từ trong lòng đất [theo khoa học hành tinh hiện đại, có thể hiểu đây là hiện tượng các mảng lục địa chuyển động xảy ra hiện tượng hút nổi và hút chìm các mảng kiến tạo, khiến các vật chất quý từ sâu trong lòng đất như vàng, bạc, kim cương, ngọc quý được đẩy lên trên bề mặt hành tinh, hình thành các mỏ quặng, trong Kinh gọi đây là các kho tàng; sự chuyển động hình thành các mảng kiến tạo ấy, trong Kinh là những dòng có thần sự sống được gọi là các Long Vương - vua rồng]; khi các kho tàng xuất hiện ở thế gian, thì châu báu cũng xuất hiện. Không những chỉ cho đúng như vậy, mà còn nhiều hơn thế cho những người xin của nhà vua.”
Nghe như vậy xong, khi ấy, Ta phát nguyện: “Nếu khi thế giới với đủ năm thứ uế trược đang tồn tại, ở trong thời kỳ đen tối không có chánh pháp, đầy khổ não dữ dội, với chúng sinh thọ mạng 100 năm, Ta chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì nguyện này sẽ được viên mãn: Ta sẽ trở thành Long Vương tên là nidhi-darśaka - Người Chỉ Ra Các Kho Báu ở trong cõi Phật này.
Và trong cõi Phật Nhiều Tội Lỗi này, ở tất cả các châu, tại mỗi một châu, Ta sẽ thọ sinh bảy lần; trong mỗi một đời, Ta sẽ chỉ ra và ban cho hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ kho tàng châu báu đầy đủ các loại ngọc quý, như là vàng, bạc, lưu ly xanh lớn, ngọc phát ánh sáng trắng, ngọc phát ánh sáng xanh, ngọc phát quang lửa, ngọc phát ánh sáng mật ngọt và ngọc khiến tâm thanh tịnh. Và mỗi một kho tàng sẽ trải dài hàng ngàn yojana, Ta sẽ chỉ bày và ban cho đầy đủ châu báu cho chúng sinh, Ta sẽ ở trong cõi Phật này thực hành hạnh dũng mãnh như thế.
Cũng như vậy, ở mười phương, trong các cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, thuộc năm uế trược trong các thế giới, ở mỗi một cõi, trong tất cả các châu, Ta sẽ thọ sinh bảy lần; trong mỗi một đời, Ta sẽ chỉ ra và ban cho hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ kho tàng châu báu đầy đủ các loại ngọc quý, như là vàng, bạc, lưu ly xanh lớn, ngọc phát ánh sáng trắng, ngọc phát ánh sáng xanh, ngọc phát quang lửa, ngọc phát ánh sáng mật ngọt và ngọc khiến tâm thanh tịnh. Và mỗi một kho tàng sẽ trải dài hàng ngàn yojana, Ta sẽ chỉ bày và ban cho đầy đủ châu báu cho chúng sinh, Ta sẽ ở trong các cõi Phật ấy thực hành hạnh dũng mãnh như thế.”
Và này thiện nam tử, khi Ta đã phát lời nguyện như vậy, thì lúc ấy trên không trung, hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ chư thiên từ giữa hư không rải xuống trận mưa hoa, và đồng thanh tán thán rằng: “Lành thay! Lành thay!, thưa bậc ban cho tất cả, nguyện như thế của Ngài sẽ thành tựu đúng như lời phát nguyện.”
Dân chúng đông đảo đã nghe rằng vua Am-ba-ra được chư thiên ở giữa hư không ban cho danh hiệu là “Sarvaṃdada” — Bậc ban cho tất cả. Khi nghe vậy, họ liền nghĩ: “Chắc hẳn chúng ta nên xin một sự bố thí thuộc loại xả bỏ khó làm; nếu Ngài xả bỏ được, thì khi ấy mới xứng danh là Sarvaṃdada - Bậc ban cho tất cả; còn nếu không, thì sẽ không phải là Sarvaṃdada - Bậc ban cho tất cả.”
Rồi tất cả bọn họ khởi ý xin từ vua Am-ba-ra các cung phi, xin cả hoàng hậu và các con trai, con gái của Ngài.
Khi ấy, vua Am-ba-ra hoan hỷ ban cho, nhưng họ lại nghĩ: “Người bỏ vợ không phải là điều quá khó. Chắc hẳn chúng ta nên xin thân thể của vua Am-ba-ra; nếu Ngài cho, thì Ngài sẽ thật sự là Sarvaṃdada - Bậc ban cho tất cả; còn nếu không, thì Ngài không phải là Sarvaṃdada - Bậc ban cho tất cả.”
Sau đó, ở ngay trước mặt Ngài, có một thanh niên tên là Jyotīrasa - Ánh Sáng Tinh Tuý, đứng trước vua Am-ba-ra và thỉnh cầu rằng: “Kính thưa Bậc ban cho tất cả sarvaṃdada, xin Ngài ban cho tôi cả vương quốc.”
Nghe xong, vua Am-ba-ra với tâm hoan hỷ tột bậc đã tự tay tắm gội cho vị Bà-la-môn ấy, rồi buộc dải mũ đăng quang, làm lễ tấn phong đế vị, lập ông vào ngôi vua, giao toàn bộ cõi Diêm-phù-đề, và phát nguyện: “Ta nhờ sự xả bỏ toàn cõi Diêm-phù-đề này, sẽ chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nếu nguyện này của Ta được viên mãn, thì vị vua hiện nay đã được Ta lập cai trị toàn cõi Diêm-phù-đề ấy, nguyện cho mệnh lệnh của ông được thành tựu khắp Diêm-phù-đề, được trường thọ, làm vua Chuyển luân Thánh Vương lâu dài; và khi nào Ta chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì khi ấy sẽ thọ ký cho ông ấy ở ngôi Thái tử trong Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Một vị Bà-la-môn tên là Roca - Chiếu Sáng, đã xin Ta cả hai bàn chân. Ta, với tâm hoan hỷ, tự tay cầm gươm sắc bén, chặt hai chân của mình và trao cho ông, đồng thời phát nguyện: “Nguyện cho Ta đạt được bậc có bàn chân giới hạnh tối thượng”.
Khi ấy, một vị Bà-la-môn tên là Drāṣṭāva - Người Quan Sát, đã xin Ta cả hai con mắt. Ta đã móc cả hai con mắt của mình và trao cho ông. Đồng thời phát nguyện: “Nguyện cho Ta đạt được năm loại mắt tối thượng”.
Chẳng bao lâu sau, một vị Bà-la-môn tên là Saracchighoṣa - Âm Thanh Tên Bắn, đã xin Ta cả hai lỗ tai. Ta tự tay cắt và trao cho ông, đồng thời phát nguyện: “Nguyện cho Ta đạt được thính giác tối thượng”.
Lại có một đạo sĩ Ājīvaka, người tu theo lối sống đi lang thang, tên là Saṃjīvana - Hồi Sinh Sự Sống Hoàn Toàn, đã xin Ta bộ phận sinh dục nam. Ta tự tay cắt và trao cho ông, đồng thời phát nguyện: “Nguyện cho Ta đạt được tướng bí mật kín đáo nơi hạ phần của bậc tối thượng”.
Lại có người khác đã xin Ta thịt và máu. Ta tự tay ban cho, đồng thời phát nguyện: “Nguyện cho Ta đạt được tướng vàng ròng tối thượng”.
Lại có một du sĩ tên là Kṣīrasa - Tinh Chất Sữa, xin Ta cả hai bàn tay. Ta tự tay dùng tay phải chặt bàn tay trái, rồi bảo người ấy chặt bàn tay phải và trao cho, đồng thời phát nguyện: “Nguyện cho Ta đạt được bàn tay của Bậc có lòng tin tối thượng”.
Và khi các chi thể đã bị chặt, thì Ta, với thân thể nhuốm máu, đã phát nguyện: “Nếu nhờ sự xả bỏ này mà nguyện của Ta được viên mãn trong Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì chắc chắn Ta sẽ nhận lại chính thân này từ người thọ nhận.”
Những chúng sinh ấy cũng là kẻ vô tâm, không có lòng thương xót, không hiền thiện, không đạo hạnh, vô ơn — gồm các vua thuộc các thành ấp và các quan đại thần — đã nói rằng: “Kẻ này ác trí, trí tuệ kém cỏi, toàn thân đã bị chặt đứt, và đã đánh mất toàn bộ vương quyền và phú quý; thì nay còn dùng được gì với mảnh thịt vụn này nữa?”
Chúng bắt Ta rồi đem ra ngoài thành, đến bãi hỏa táng, quăng lại đó và bỏ đi. Ở đó, muỗi và ruồi kéo đến hút máu, còn chó rừng, chó hoang và kền kền kéo đến ăn thịt Ta.
Và tại nơi ấy, Ta với tâm hoan hỷ đã phát nguyện: “Vì Ta đã xả bỏ toàn bộ vinh hoa quyền lực vương quốc, và cũng xả bỏ toàn thân thể gồm các phần thân và chi thể, trong một khoảnh khắc sát-na cũng không khởi tâm hối tiếc, cũng không sinh tâm sân hận, nên nguyện này của Ta được viên mãn — nguyện cho thân thể này trở thành một núi thịt. Những chúng sinh nào ăn thịt và uống máu, thì nguyện cho chúng ăn thịt Ta và uống máu Ta.
Bao lâu chúng sinh ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì bấy lâu do sức của nguyện lực, thân thể Ta vẫn tăng trưởng, và tuần tự cao lớn cho đến 100.000 yojana về chiều cao và 5.000 yojana về bề ngang. Tại đó, trong 1.000 năm, Ta đã nuôi dưỡng các chúng sinh bằng chính thịt và máu của mình.
Và bao nhiêu cái lưỡi mà Ta đã xả bỏ và bị các loài thú và chim chia nhau ăn, thì nhờ nguyện lực, chúng lại sinh ra cái khác thay thế. Số lưỡi ấy nếu gom lại sẽ to như núi Gṛdhra-kūṭa - Linh Thứu, và Ta đã phát nguyện: Nguyện cho Ta thường hằng đạt được tướng lưỡi rộng dài tối thượng”.
Khi từ đó xả báo thân, ta đã sinh trở lại vào loài Rồng tại Diêm Phù Đề thuộc Rūḍhavaḍa - Tầng Địa Chất Rất Sâu Trong Lòng Đất, do nguyện lực từ trước, Ta trở thành Long Vương tên là Nidhisaṃdarśana - Hiển Lộ Kho Tàng Châu Báu.
Ngay trong đêm Ta sinh vào loài rồng, chính đêm ấy Ta đã làm trồi lên kho tàng quặng báu với số lượng lên đến hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ kho báu, và tự mình phát lời rao truyền rằng:
“Này các chúng sinh, tại nơi này đã xuất hiện một kho tàng đầy đủ các loại báu vật khác nhau, như là vàng, bạc, cho đến ngọc làm tâm thanh tịnh. Hãy nhận lấy. Khi đã nhận, này các chúng sinh, hãy giữ gìn và thực hành 10 nghiệp thiện, hãy phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc phát tâm theo Thanh Văn Thừa hay Độc Giác Thừa. Hãy đi, hãy nhận lấy châu báu cho đến khi đủ dùng.”
Và tại Diêm Phù Đề thuộc Rūḍhavaḍa - Tầng Địa Chất Rất Sâu Trong Lòng Đất, trong bảy lần chuyển sinh làm long vương, suốt bảy lần mỗi lần kéo dài hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ năm, Ta đã chỉ bày và trao tặng vô số kho báu không thể tính kể.
Như vậy, ở nơi đó, vô lượng vô biên chúng sinh đã được dẫn nhập vào ba thừa, được dẫn nhập vào 10 con đường nghiệp thiện, được nuôi dưỡng bằng vô số loại châu báu, và Ta đã phát nguyện: Nguyện cho Ta đạt được 32 tướng tốt của bậc đại nhân vô thượng”.
Cũng như thế, ở châu thứ hai, qua bảy lần chuyển sinh làm long vương, Ta đã thực hiện công hạnh như vậy. Và ở châu thứ ba, cho đến khắp cả cõi thế giới Vijitadoṣā - Nhiều Tội Lỗi, ở tất cả các hành tinh có sự sống, công hạnh như vậy đều đã được Ta thực hiện.
Cũng như vậy, trong mười phương, ở các cõi Phật trong thời kỳ năm uế trược và các cõi không có Phật nhiều như số cát sông Hằng, tại mỗi hành tinh có sự sống, trong bảy lần Ta đều chuyển sinh làm long vương, suốt bảy lần mỗi lần kéo dài hàngtrăm ngàn triệu tỷ tỷ năm, Ta đã trao tặng vô số kho báu không thể tính kể cho chúng sinh, đúng như đã nói trước.
Này thiện nam tử, hãy nhìn hạnh tu Tỉnh Thức của Như Lai, rằng Như Lai đã tu hành lối sống Tỉnh Thức để tìm cầu 32 tướng đại nhân với sức mạnh tinh tấn vô cùng mãnh liệt, đến mức như ở đây, từ xưa đến nay chưa từng có vị Bồ Tát nào tu hạnh Tỉnh Thức như vậy, với sức mạnh tinh tấn mãnh liệt như thế, hiện tại cũng không có ai, và về sau cũng sẽ không có vị Bồ Tát nào tu hạnh hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác với sức mạnh nỗ lực và tinh tấn lớn lao như vậy, ngoại trừ sáu vị như đã nói trước.
Làm Thiên Đế biến hình thần Dạ Xoa ác độc hướng dẫn chúng sinh vào 10 thiện nghiệp và 3 thừa
Khi ấy, sau 1 a-sam-khê kiếp, vào thời kỳ xen kẽ giữa suy hoại và thành lập, cõi Phật này đổi tên là Pravāḍodupāni - Mặt Trăng Đang Tăng Trưởng Lên.
Trong thời kỳ năm thứ uế trược, ở một cõi không có Phật, vào đại kiếp tên là Utpala - Hoa Sen Trắng, trong cõi bốn châu thiên hạ này, Ta đã làm Thiên Đế Śakra, vua của chư Thiên tên là Savirocana - Toả Sáng Rực Rỡ.
Ta thấy tại Diêm Phù Đề này có các chúng sinh đang thực hành tìm cầu những điều bất thiện. Thấy vậy, Ta liền hóa hiện thành một hình tướng Dạ xoa vô cùng đáng sợ, rồi giáng xuống Diêm Phù Đề này, đứng đối diện trước mặt loài người.
Khi họ thấy Ta, hoảng sợ, liền hỏi Ta rằng: “Ngài cần gì? Chúng tôi sẽ cho Ngài điều đó.”
Ta nói: “Ta cần thức ăn.”
Họ hỏi rằng: “Thức ăn của Ngài là gì?”
Ta nói: “Ta giết người rồi ăn thịt. Nhưng Ta không ăn những người suốt đời tránh xa việc sát sinh, và từ bỏ tà kiến, những ai phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc phát tâm theo Độc Giác Thừa hay Thanh Văn Thừa, những người ấy Ta cũng không ăn.”
Và ở đó, khi các chúng sinh do Ta hóa hiện bị ăn thịt, thấy vậy, các chúng sinh ấy vì sợ hãi mà suốt đời tránh xa việc sát sinh, việc lấy của không cho cho đến từ bỏ tà kiến. Có người đã phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có người theo Độc Giác Thừa, có người theo Thanh Văn Thừa.
Tất cả chúng sinh ở thế giới hành tinh bốn châu thiên hạ ấy đều được an lập vào 10 con đường nghiệp thiện và vào ba thừa.
Ở đó, Ta đã phát nguyện: “Nếu nguyện vọng của Ta trong Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được viên mãn, thì nguyện này sẽ thành tựu đầy đủ, và như các chúng sinh ở thế giới hành tinh bốn châu thiên hạ đã được hướng dẫn vào con đường thiện, thì cũng như vậy khắp nơi trong cõi Phật này, tất cả chúng sinh ở các hành tinh với đủ bốn châu thiên hạ sẽ thấy Ta với sự sợ hãi như thế, Ta sẽ an lập họ vào 10 con đường nghiệp thiện, và dẫn họ vào ba thừa.”
Cũng như vậy, khắp mười phương, trong các cõi Phật thuộc thời kỳ không có Phật, đang ở thời năm uế trược, Ta sẽ an lập các chúng sinh vào 10 con đường nghiệp thiện, và dẫn dắt vào ba thừa.
Cũng như vậy, này thiện nam tử, nguyện vọng và lời phát nguyện của Ta đã được viên mãn. Ở khắp thế giới Pravāḍodupāna - Mặt Trăng Đang Tăng Trưởng Lên, loài người đã được giáo hóa vào các pháp thiện bằng hình tướng Dạ xoa.
Cũng như vậy, trong mười phương, ở các cõi không có Phật tương đương số cát sông Hằng, vào thời năm uế trược, Ta đã an lập loài người vào hạnh tu con đường thiện bằng hình tướng Dạ xoa.
Và bởi vì nhiều chúng sinh đã được Ta an lập vào lối sống thiện nhờ sợ hãi, thì do phần dư của nghiệp ấy, ngay khi Ta đang ngồi dưới cội cây Bồ-đề, trên tòa kim cang, mong cầu chứng được Tỉnh Thức, ma vương pāpīyā đã cùng đại binh kéo đến nhằm gây chướng ngại cho Tỉnh Thức.
Này thiện nam tử, đây là tóm lược lối sống bố thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia của Ta. Khi thực hành lối sống Tỉnh Thức, Ta đã đạt được nhẫn nhục rất sâu, năng lực trì giữ chân lý Dhāraṇī rất sâu, chánh định samādhi rất sâu, và năm thần thông thế gian. Ta đã làm những công hạnh của bậc Đại nhân như vậy.
Như vậy, vô lượng vô biên chúng sinh đã được hướng dẫn, an lập, và đặt vững chắc vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cũng như vậy, vô số chúng sinh đã được an lập vào Độc Giác Thừa; vô số chúng sinh đã được an lập vào Thanh Văn Thừa — tất cả đều được hướng dẫn, an lập và đặt vững chắc.
Ngoài ra, khi Ta hành lối sống Bồ-tát, Ta đã phụng sự các đức Phật Thế Tôn nhiều như số hạt hạ lượng tử trong cõi Phật. Trước mỗi đức Phật, Ta đã thâu nhận công đức nhiều như số giọt nước biển. Ta đã cúng dường vô số Độc Giác Phật, vô số đệ tử Thanh Văn của Như Lai, cũng như cha mẹ và các vị tiên ẩn sĩ có năm thần thông.
Và Ta, do lòng từ bi, khi thực hành lối sống Bồ-tát thuở quá khứ, đã nuôi dưỡng chúng sinh bằng chính thịt và máu của mình; nay Ta nuôi dưỡng họ bằng chánh pháp.
Đây là Phẩm thứ năm có tên là “Bố Thí”, thuộc Thánh Kinh Đại Thừa Hoa Sen Trắng Puṇḍarīka Đại Bi Thanh Tịnh, đến đây là hoàn tất.
6. Phẩm Các Đức Phật Mười Phương Tán Thán
Này thiện nam tử, như ta với con mắt Toàn Giác của Phật nhìn thấy mười phương có vô số các đức Phật Thế Tôn nhiều như số hạt hạ lượng tử của cõi Phật, đã nhập Niết-bàn, những vị mà do ta thuở đầu, ngay lần đầu tiên đã được tiếp nhận một cách trọn vẹn, được đưa vào, an lập vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, những vị mà do ta thuở đầu, ngay lần đầu tiên, đã được an lập vào Bố thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia, cho đến khi được an lập vào Tuệ Giác prajñā Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia.
Cũng như vậy, hiện nay ở phương Đông có vô lượng vô số các đức Phật đã chuyển vận Bánh xe Pháp chân chính, đang trụ thế, duy trì và thuyết giảng Chánh pháp, ta đều đã thấy; đó là những vị mà ta đã khiến họ lần đầu tiên phát tâm, đã được an lập vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Cũng như vậy, cho đến sáu pháp Ba-la-mật đều nên nói như thế, và cũng như vậy ở các phương Nam, Tây, Bắc, các phương góc, và phương Trên, phương Dưới cũng nên nói như vậy.
Này thiện nam tử, Ta thấy ở phương Đông, từ thế giới Phật này vượt qua 9 triệu 100 ngàn cõi Phật, có một thế giới tên là Saṃpuṣpita - Hoa Nở Rực Rỡ, tại đó có đức Như Lai hiệu là Vimalatejaguṇarāja - Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế đang trụ thế, giữ gìn, duy trì và thuyết giảng Chánh pháp.
Đức Thế Tôn ấy đã được ta thuở trước khiến phát tâm lần đầu tiên, đã được dẫn nhập, an trú, và thiết lập vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ta cũng đã khiến Ngài lần đầu tiên được an lập vào Bố thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia, cho đến Tuệ Giác Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia.
Ở phương Đông có các cõi Phật như:
Tại cõi Phật Abhirati - có đức Như Lai hiệu Akṣobhya - Bất Động.
Tại cõi Phật Jambūnada - Vàng Ròng, có đức Như Lai hiệu Sūryagarbha - Tạng Mặt Trời.
Tại cõi Phật Ratīśvara - Hoan Hỷ Tối Cao, có đức Như Lai hiệu Ratīśvaraghoṣajyotis - Âm Thanh Ánh Sáng Hoan Hỷ Tối Cao.
Tại cõi Phật Sūryapratiṣṭhita - Mặt Trời An Trụ - có đức Như Lai hiệu Jñānabhāskara - Mặt Trời Trí Tuệ.
Tại cõi Phật Jayavaiśraya - An Trú Chiến Thắng, có đức Như Lai hiệu Nāganinardita - Âm Thanh Rồng Chấn Động.
Tại cõi Phật Saṃjīvana - Sự Sống Hoàn Toàn Đầy Đủ, có đức Như Lai hiệu Vajrakīrti - Danh Tiếng Kim Cang.
Tại cõi Phật Svaraja - Tự Chủ Chính Mình, có đức Như Lai hiệu Vyāghraraśmi - Hào Quang Hổ.
Tại cõi Phật Aratīya - Không Đắm Nhiễm Lạc Thú, có đức Như Lai hiệu Sūryagarbha - Nhật Tạng.
Tại cõi Phật Vairaprabha - Ánh Sáng Đoạn Trừ Oán Hận, có đức Như Lai hiệu Kīrtiśvararāja - Vua Danh Tiếng Tối Thượng.
Tại cõi Phật Meru-prabha - Ánh Sáng Meru, có đức Như Lai hiệu Acintyarāja - Vua Không Tư Duy Suy Nghĩ Tối Thượng.
Tại cõi Phật Saṃvara - Hộ Trì, có đức Như Lai hiệu Jyotiśrī - Ánh Sáng Cao Quý.
Tại cõi Phật Kusuma-prabha - Ánh Sáng Hoa, có đức Như Lai hiệu Prabhāketu - Ngọn Cờ Ánh Sáng.
Tại cõi Phật Kṣamottara - Nhẫn Nhục Chịu Đựng Tối Thượng, có đức Như Lai hiệu Merusvarasandarśana-Meru - Núi Meru Thị Hiện Âm Thanh Meru.
Tại cõi Phật Dharaṇāvati - Trì Giữ Dharaṇi, có đức Như Lai hiệu Jñānabimba - Hình Chiếu Trí Tuệ.
Tại cõi Phật Kusumavicitra - Hoa Rực Rỡ Kỳ Diệu, có đức Như Lai hiệu Vimalanetra - Mắt Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Ô Nhiễm.
Này thiện nam tử, kể từ những đức Phật tiêu biểu vừa nêu, ở phương Đông ta thấy bằng Phật nhãn, có vô số vô lượng các đức Phật Thế Tôn đang trụ thế, duy trì và thuyết giảng Chánh pháp.
Những vị thuở trước chưa phát khởi tâm Tỉnh thức, lần đầu tiên đã được ta an lập, đặt vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và lần đầu tiên đã được Ta an lập vào Bố thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia cho đến Tuệ Giác Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia, đã được Ta dẫn đến nơi các đức Phật Thế Tôn đang trụ thế và duy trì, và tại đó họ lần đầu tiên đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bấy giờ, vào lúc ấy, trong thế giới Saṃpuṣpita - Hoa Nở Rực Rỡ, toà ngồi của đức Như Lai Vimalaguṇatejarāja - Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế chấn động.
Các vị Bồ Tát ở đó, khi thấy toà ngồi của đức Như Lai Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế chấn động, liền hỏi đức Như Lai ấy rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nhân gì và duyên gì mà toà ngồi của đức Thế Tôn lại chấn động như thế, việc chưa từng thấy trước đây?”
Đức Như Lai Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế bảo họ rằng:
Này các thiện nam tử, ở phương Tây, từ thế giới Phật này vượt qua 9 triệu 100 ngàn cõi Phật, có một thế giới tên là Sahā. Tại đó, có đức Như Lai hiệu Śākyamuni đang trụ thế, duy trì và hoằng hóa. Hiện nay, Ngài đang giảng pháp cho bốn hội chúng, mở đầu bằng hướng dẫn cách tu tập duy thức thưở quá khứ.
Đức Như Lai ấy, khi còn là Bồ Tát, đã khiến cho ta thuở trước phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do Ngài, mà Ta lần đầu tiên đã đã được tiếp nhận một cách trọn vẹn, được đưa vào, an lập vào vào Bố thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia cho đến Tuệ Giác Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia.
Do đức Như Lai ấy, khi ta còn thực hành lối sống Bồ Tát, đã được đưa đến chỗ các đức Phật Thế Tôn đang trụ thế và hoằng hóa, và tại đó lần đầu tiên ta đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đức Như Lai Śākyamuni là bậc thiện tri thức của ta, hiện đang trụ thế và hoằng hóa trong thế giới Sahā. Ngài hiện đang giảng pháp cho bốn hội chúng, mở đầu bằng hướng dẫn cách tu tập duy thức thưở quá khứ. Nhờ oai lực gia trì của đức Như Lai ấy, nên toà ngồi của ta chấn động.
Ai trong số thiện nam tử các ông có thể phát tâm theo lời ta mà đến cõi Phật Sahā để thăm hỏi sức khỏe và sự an lành của đức Như Lai Śākyamuni chăng?
Bấy giờ, các vị Bồ Tát thưa với đức Như Lai Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, ở cõi Phật Hoa Nở Rực Rỡ này, những vị có thần thông và đã thành tựu đầy đủ tất cả Bờ Bên Kia pāramitā công đức của Bồ Tát, sáng nay đã thấy một ánh sáng lớn đến từ một cõi Phật khác qua sự biến hóa thần thông. Do vậy, trong khoảnh khắc này mặt đất chấn động và hoa trời rơi xuống.
Các vị Bồ Tát lại thưa:
Chúng con, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, cũng sẽ đi đến cõi Phật Sahā để đảnh lễ, thân cận cúng dường đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, và để nghe bài giảng pháp về cửa nhập vào Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī của Trạng Thái Là Trí Toàn Tri.
Có hàng trăm ngàn vị Bồ Tát, nhờ sức mạnh thần thông, từ cõi Phật ấy liền khởi hành.
Nhưng các Ngài không biết rõ phải đi đâu, nên các Ngài lại thưa:
Ngay cả phương hướng ấy chúng con cũng không biết ở đâu, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, nơi nào là thế giới Sahā, cõi Phật của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai?
Bấy giờ, đức Như Lai Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế đưa cánh tay ra và từ năm ngón tay phóng ra các tia sáng nhiều màu sắc khác nhau.
Từ những tia sáng ấy, đã chiếu sáng 9 triệu 100 ngàn cõi Phật, cho đến cõi Phật Sahā này cũng được chiếu sáng. Nhờ vậy, các vị Bồ Tát thấy toàn thể cõi Phật Sahā này rõ ràng, cùng với các Bồ Tát, và cả chư Thiên, Rồng, Dạ Xoa và A-tu-la trên hư không, tất cả đều hiện rõ.
Khi thấy vậy, các vị Bồ Tát lại thưa với đức Như Lai Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế rằng:
Chúng con thấy rõ, thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, toàn thể cõi Phật Sahā hiện rõ, không có một khoảng trống nhỏ nào không hiện rõ Bồ Tát. Chúng con thấy đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai đang nhìn chúng con và giảng pháp.
Đức Như Lai Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế bảo các vị Bồ Tát ấy rằng:
Này các thiện nam tử, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai có con mắt thấy khắp.
Bất cứ chúng sinh nào, này thiện nam tử, ở thế giới Sahā, dù ở trên mặt đất hay ở trong hư không, mỗi người đều tự nhận biết: ‘Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai đang nhìn ta với tất cả tâm ý và đang giảng pháp chỉ riêng cho ta.’
Này các thiện nam tử, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai thuyết pháp cho mọi sắc tộc, mọi nhóm người, nhưng mỗi người đều nghe như chỉ có một loại ngôn ngữ.
Những chúng sinh ở đó, này các thiện nam tử, nếu tôn kính Phạm Thiên, thì thấy đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai như là Phạm Thiên và nghe pháp bằng âm thanh của Thiên Chúa Đại Phạm Thiên Mahābrahmapati.
Cho đến những ai tôn kính Ma Vương, tôn kính Thần Mặt Trời, tôn kính Thần Mặt Trăng, tôn kính Tỳ-sa-môn - Đa Văn Thiên Vương vaiśravaṇa, tôn kính Trì Quốc Thiên Vương Virūḍhaka, tôn kính Quảng Mục Thiên Vương Virūpākṣa, tôn kính Tăng Trưởng Thiên Vương Dhṛtarāṣṭra, hay tôn kính Đại Tự Tại Thiên Maheśvara, thì những chúng sinh ấy thấy đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai với hình tướng, sắc thân và âm thanh lời nói như tương ứng với những vị ấy, và nghe pháp.
Cho đến 84.000 loại sắc thân, tín ngưỡng, hình tướng và âm thanh ngôn ngữ của chúng sinh ở đó, họ đều thấy đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai đúng theo cách ấy và nghe pháp.
Trong hội chúng ấy, có Bồ Tát tên là Rahagarjita - Tiếng Gầm Vang Nơi Yên Tĩnh Ẩn Mật, và vị thứ hai là Bồ Tát tên Jyotiraśmi - Tia Sáng Lửa.
Bấy giờ, đức Như Lai Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế liền gọi các vị Bồ Tát ấy rằng:
Này các thiện nam tử hãy đi đến thế giới Sahā, yết kiến đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, thay lời ta hỏi thăm về sức khỏe, sự khéo léo an trú, sự an lạc khi xúc chạm.
Các vị Bồ Tát ấy thưa rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, toàn bộ cõi Phật Sahā, cả trên đất và trên hư không, đều hiện rõ với các vị Bồ Tát. Nhưng ở đây không có một chỗ trống nào, dù chỉ đủ cho một chúng sinh, trên mặt đất hay trên hư không, để chúng con có thể an trú.
Đức Như Lai Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế bảo rằng:
Này thiện nam tử, chớ nói rằng: ‘Trong cõi Phật Sahā không có chỗ trống’.
Cõi ấy của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai có chỗ trống rộng lớn nhờ những công đức Toàn Giác của Phật không thể nghĩ bàn. Do nguyện lực quá khứ, sự rộng lớn ấy là nhờ tâm từ bi và sự cho phép tiếp nhận của Như Lai. Ngài thuyết pháp bắt đầu từ việc dẫn dắt vao ba quy y, giảng dạy giáo pháp của ba thừa, thuyết về ba loại học xứ tịnh giới, chỉ bày ba cửa giải thoát, cứu vớt chúng sinh khỏi ba đường ác, và đặt họ vào ba con đường an lành.
Một thời, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, vừa mới thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì muốn quán sát các chúng sinh đáng được giáo hóa, đang an trú tại động Sa-la trong cung điện của Dạ-xoa Indrākṣa - Con Mắt Của Indra ở giữa núi Śaila. Ngài nhập định một tuần lễ trong tư thế ngồi kiết già bất động, trải nghiệm niềm vui giải thoát.
Và toàn bộ động Sa-la ấy được thân Như Lai chiếu sáng. Không có chỗ nào, dù chỉ nhỏ bằng bốn ngón tay, mà không được thân Như Lai chiếu sáng.
Khi mãn bảy ngày ấy, từ mười phương có 12 triệu tỷ vị Bồ Tát trong thế giới Sahā đã đứng hướng về ngọn núi ấy, để đến đảnh lễ, cúng dường thân cận, và nghe pháp từ đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai.
Và này thiện nam tử, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở trong pháp hội ấy đã thực hiện sự biến hóa thần thông. Khi ấy động Sa-la bỗng trở nên rộng rãi như thế và mênh mông như thế, đến nỗi khi 12 triệu tỷ vị Bồ Tát ấy bước vào trong động Sa-la, họ thấy một khoảng không gian rộng rãi. Mỗi vị Bồ Tát ở đó, sau khi đã cúng dường đức Như Lai bằng các sự biến hóa Bồ Tát khác nhau, liền tạo ra một tòa ngồi bằng bảy báu để ngồi nghe pháp. Này thiện nam tử, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai chính là bậc có không gian rộng rãi nhiệm mầu như thế. Các vị Bồ Tát ấy, sau khi đã nghe pháp từ đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, liền dùng trán đảnh lễ dưới chân Ngài, nhiễu quanh ba vòng, rồi trở về cõi Phật của mình. Và ngay sau khi các vị Bồ Tát ấy đã rời đi, động Sa-la lại trở về nguyên trạng như trước.
Khi ấy, tại thế giới hành tinh có đủ bốn châu thiên hạ ấy, có Thiên Đế Śakra, vua của chư Thiên, tên là Kauśika, tuổi thọ đã gần mãn, sợ hãi việc sẽ tái sinh vào các đường súc sinh. Ngài cùng với 84.000 Thiên tử cõi trời Ba Mươi Ba đi đến động Sa-la nơi đức Thế Tôn đang an trú.
Khi đến nơi, Thiên Đế đứng gần bên cung điện của Dạ-xoa Indrākṣa ngoài cửa động Sa-la. Nhờ oai thần của đức Thế Tôn, Thiên Đế khởi ý nghĩ này: “Chúng ta nên thỉnh cầu con của thiên nhạc thần Gandharva là Pañcaśikha - Năm Ngọn Lửa. Vị Pañcaśikha ấy sẽ tán thán đức Thế Tôn bằng giọng ca ngọt ngào đối diện với Ngài. Khi ấy đức Thế Tôn sẽ xuất định khỏi các thiền chánh định samādhi”.
Bấy gió Thiên Đế Śakra, vua của chư Thiên liền thỉnh Pañcaśikha, con của Thiên nhạc thần Gandharva. Khi ấy, Pañcaśikha tay cầm đàn vīṇā, dùng âm nhạc ca ngợi thật du dương, nhờ oai lực của đức Thế Tôn, đã tán thán sắc tướng của đức Thế Tôn bằng năm trăm bài kệ tán.
Và này thiện nam tử, khi Pañcaśikha bắt đầu tán thán đức Thế Tôn, thì khi ấy đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai nhập vào một chánh định samādhi tên là “Ngọn Cờ Mặt Trời Toàn Giác Vairocana Âm Thanh Vi Diệu” (Sughoṣa-Vairocanaketu). Nhờ chánh định samādhi ấy, tất cả các đại thần thông Dạ-xoa, La-sát, A-tu-la, garuḍā, Kinnara, mahoragā, Gandharva, cùng toàn thể chư Thiên cõi trời Dục giới kāmāvacarā và các Thiên tử cõi trời Sắc giới rūpāvacarā trong thế giới Saha đều vân tập tại nơi ấy.
Những ai sùng kính ái mộ âm thanh thì nghe tiếng liền hoan hỷ. Những ai sùng kính ái mộ sắc tướng và danh tiếng thì nghe sắc tướng của đức Thế Tôn liền khởi tâm yêu kính sâu xa, lòng rất tôn trọng và cảm phục rực rỡ, rồi hoan hỷ. Những ai sùng kính ái mộ tiếng sáo thì nghe tiếng sáo liền hoan hỷ.
Khi ấy đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai từ chánh định samādhi ấy xuất ra, rồi mở ra cửa động Sa-la. Thiên Đế Śakra, vua của chư Thiên, tiến đến gần đức Thế Tôn và bạch hỏi rằng: “Thưa đức Thế Tôn, chúng con nên ngồi ở đâu?”
Bấy giờ, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai nói rằng: “Này các Dạ-xoa, hãy an tọa cho đến khi tất cả đều đã dừng lại và tụ hội”.
Khi ấy, động Sa-la trở nên rộng lớn đến mức có thể dung chứa số lượng Dạ-xoa đông bằng với số hạt cát của 12 sông Hằng. Tất cả các Dạ-xoa ấy đều đi vào trong động.
Khi hội chúng đã an tọa, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai đã thực hiện một pháp thuyết như sau.
Những vị trong hội chúng ấy thuộc về hàng Thanh Văn thừa đang an tọa thì được nghe pháp thoại thuộc Thanh Văn thừa. Trong số đó, 990 triệu người đã chứng đắc quả Nhập lưu śrotāpatti.
Những vị trong hội chúng ấy thuộc về thừa Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì nghe pháp thoại thanh tịnh của Đại thừa.
Và ở đó, có 1 triệu 800 ngàn tỷ vị bất thoái chuyển hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, dẫn đầu là Thiên nhạc thần Pañcaśikha.
Và những ai trước đây chưa từng phát khởi tâm đối với ba thừa, thì tại nơi ấy, có người đã phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có người phát tâm Độc Giác Phật thừa, và có người phát tâm Thanh Văn thừa.
Và vị Thiên Đế Kauśika, vua của chư Thiên, ở đó đã được giải thoát khỏi sợ hãi, tuổi thọ tăng thêm 1.000 năm, và đã trở thành một vị bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Do vậy, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai quả thật có oai lực làm cho chỗ ngồi trở nên rộng lớn như thế.
Cũng như vậy, vòng âm thanh của đức Như Lai ấy rất rộng lớn. Không một ai có thể nắm bắt trọn vẹn hay tính toán được giới hạn của vòng âm thanh của đức Như Lai ấy.
Sự thiện xảo phương tiện và sự thành thục chúng sinh của đức Như Lai ấy là rộng lớn. Không một ai có thể nắm bắt trọn vẹn sự thiện xảo phương tiện của đức Như Lai ấy.
Này thiện nam tử, đức Như Lai ấy cũng có thân rộng lớn. Không ai có thể nhìn thấy đỉnh đầu của Ngài, hay đạt đến giới hạn thân của Ngài.
Và bao nhiêu chúng sinh hiện tại tụ hội tại cõi Phật Saha ấy, nếu những chúng sinh ấy đi vào trong bụng của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, thì tất cả đều có thể đi lại ở trong đó. Và những chúng sinh ấy có thể đi vào và đi ra qua một lỗ chân lông của Như Lai. Từ một lỗ chân lông ấy của Như Lai, họ vẫn không thể nắm bắt trọn vẹn, hay thấy được sự thiếu hoặc sự đầy cho đến đến tận cùng, dù bằng thiên nhãn. Do vậy, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, quả thật có thân rộng lớn như thế.
Thêm nữa, này thiện nam tử, cõi Phật của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai là rộng lớn. Và bao nhiêu cõi Phật trong mười phương, nhiều như số cát sông Hằng, nếu đều đầy kín chúng sinh, giống như hiện nay tại cõi Phật Saha, thì tất cả những chúng sinh ấy hiện tại đều có thể đi vào cõi Phật Saha, và tất cả ở đó đều có thể đi lại.
Vì nguyên nhân gì? Bởi vì thuở trước, khi lần đầu tiên phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đúng như lời đức Như Lai ấy đã phát nguyện. Giả sử, này thiện nam tử, có một thế giới rộng lớn nhiều bằng số cát sông Hằng. Nếu, này thiện nam tử, trong mười phương có số cõi Phật rộng lớn nhiều bằng số cát của 1.000 sông Hằng, giống như hiện nay tại cõi Phật Saha đều đầy kín chúng sinh, thì tất cả những chúng sinh ấy hiện tại đều có thể đi vào thế giới Saha, và tất cả ở đó đều có thể đi lại.
Nguyện thuở trước của đức Như Lai ấy, khi lần đầu tiên phát tâm để đạt được trí tuệ Vô Thượng, là như vậy.
Này thiện nam tử, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai có cõi Phật rộng lớn như vậy.
Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai đặc biệt nhờ bốn pháp này để thành tựu cõi Phật như vậy.
Các ông, này thiện nam tử, hãy nhận lấy những đoá hoa thanh tịnh ánh sáng như mặt trăng candra-roca này. Hãy đi về phương Tây, để chính mắt thấy cõi Phật Saha, và nhân lời của ta, hãy thưa hỏi đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, về sức khỏe và sự khéo léo.
Khi ấy đức Thế Tôn Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế Như Lai liền lấy những đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca, trao cho Bồ Tát Rahagarjita - Tiếng Gầm Vang Nơi Yên Tĩnh Ẩn Mật, và Bồ Tát Jyotiraśmi - Tia Sáng Lửa, rồi nói rằng:
“Này hai thiện nam tử hãy đi đến thế giới Saha nhờ sức mạnh thần thông mà ta truyền cho.”
Bấy giờ, 20.000 chúng sinh ở đó nói rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, chúng con cũng muốn đi nhờ oai lực của Như Lai đến thế giới Saha để được chiêm ngưỡng, đảnh lễ, và hầu cận cúng dường đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai.
Đức Thế Tôn Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế Như Lai nói rằng:
Này các thiện nam tử hãy đi theo như ý nguyện của mình.
Khi ấy, hai vị Bồ Tát là Rahagarjita - Tiếng Gầm Vang Nơi Yên Tĩnh Ẩn Mật, và Bồ Tát Jyotiraśmi - Tia Sáng Lửa, cùng với 20.000 vị Bồ Tát, nhờ thần lực của đức Thế Tôn Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế Như Lai, liền từ cõi Saṃpuṣpita - Hoa Nở Rực Rỡ khởi hành và trong một khoảnh khắc sát na một tâm niệm đã đến cõi Phật Saha, rồi đứng trên núi Linh Thứu.
Các vị ấy, hướng vể đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, chắp tay cung kính và thưa rằng:
Thưa đức Thế Tôn, ở phương Đông, vượt qua 9 triệu 100 ngàn cõi Phật, có một thế giới tên là Saṃpuṣpita - Hoa Nở Rực Rỡ, nơi đó có đức Như Lai hiệu là Vimalaguṇatejarāja - Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế.
Đức Như Lai ấy, cùng với chúng Bồ Tát, khi tán thán công đức và phẩm hạnh của Như Lai, đã nói rằng:
‘Có đức Như Lai hiệu Thich Ca Mâu Ni ở cõi Phật Saha, đang giáo hóa. Khi Ta còn là Bồ Tát tu hành lối sống Bồ Tát, lần đầu tiên đã được Ngài ấy dẫn vào và đặt vững chắc nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; và theo lời dạy của Ngài, Ta đã phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lần đầu tiên được đưa vào Bố Thí Ba-La-Mật đưa đến Bờ Bên Kia, cho đến Tuệ Giác Ba La Mật đưa đến Bờ Bên Kia.
Bởi bốn pháp này, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, là bậc vượt trội hơn và thù thắng hơn. Và như vậy, đức Như Lai ấy đã gửi những đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca này, và hỏi thăm về sức khỏe, sự an ổn và cảnh giới tịch tịnh an vui của Ngài’.
Cũng giống như vậy, từ cõi Phật Abhirati, toà ngồi của đức Akṣobhya - Bất Động Như Lai chấn động. Và các vị Bồ Tát đang hội họp tại đó, thấy toà ngồi của đức Bất Động Như Lai chấn động, liền thưa hỏi với cuộc đối thoại giữa đức Phật Bất Động Như Lai và các vị Bồ Tát ở đấy cũng giống như tại cõi của đức Thế Tôn Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế Như Lai.
Vào lúc ấy, vô lượng vô biên sứ giả của các đức Như Lai là các vị Bồ Tát từ phương Đông đã đến cõi Phật Saha này, mang theo những đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng, để hỏi thăm, cúng dường, đảnh lễ, hầu cận, và lắng nghe chánh pháp từ đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai.
Ngay sau khi đức Thế Tôn đã xưng tán danh hiệu của các đức Phật Thế Tôn tại các cõi Phật ở phương Đông, Ngài lại bắt đầu xưng tán danh hiệu của các đức Phật Thế Tôn tại các cõi Phật ở phương Nam. Ngài nói rằng:
Này thiện nam tử, Ta thấy ở phương Nam, vượt qua số lượng cõi Phật tương đương với số cát của một sông Hằng, có một thế giới tên là Sarvaśokāpaga - Tất Cả Sầu Khổ Ưu Phiền Đều Tiêu Tan, tại đó có đức Như Lai hiệu là Āśokaśrī - Ánh Sáng Vinh Quang Không Buồn Khổ, đang trụ, giữ gìn và giáo hóa.
Chính do Ta mà đức Thế Tôn ấy, thuở xưa, khi Ta còn đang thực hành lối sống Bồ Tát, lần đầu tiên đã được dẫn dắt vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lần đầu tiên dẫn dắt vào Bố Thí Ba La Mật đưa đến Bờ Bên Kia, cho đến Tuệ Giác Ba La Mật đưa đến Bờ Bên Kia.
Ở cõi Phật Jambūprabhā - Ánh Sáng Cây Mận Jambū, có đức Như Lai hiệu là Dharmīśvara-vinardi - Tiếng Gầm Chúa Tể Chánh Pháp.
Ở cõi Phật Merupratiṣṭhita - Núi Meru An Lập Vững Chắc, có đức Như Lai hiệu là Gatīśvara-sālendra - Vua Cây Sala Chúa Tể Các Con Đường.
Ở cõi Phật Guṇendra-niryūha - Đội Quân Chúa Tể Công Đức, có đức Như Lai hiệu là Siṃha-vijṛmbhita-rāja - Vua Sư Tử Gầm Vang.
Ở cõi Phật Maṇimūla-vyūha - Trang Nghiêm Gốc Rễ Ngọc Quý Mani, có đức Như Lai hiệu là Nārāyaṇa-vijita-garbha - Tạng Chinh Phục Chiến Thắng Nārāyaṇa.
Ở cõi Phật Muktāprabhā-saṃcaya - Tích Tụ Ánh Sáng Trân Bảo, có đức Như Lai hiệu là Ratnaguṇa-vijṛmbhita-saṃcaya - Tập Hợp Mở Rộng Công Đức Ngọc Quý.
Ở cõi Phật Devasoma - Mặt Trăng Cõi Trời, có đức Như Lai hiệu là Jyotirgarbha - Tạng Ánh Sáng Lửa.
Ở cõi Phật Candanamūla - Gốc Trầm Hương Candana, có đức Như Lai hiệu là Nakṣatravidhāna-kīrti - Danh Tiếng Quy Luật Tinh Tú.
Ở cõi Phật Viśiṣṭagandha - Hương Thơm Siêu Việt, có đức Như Lai hiệu là Puṇyabala-sāla-rāja - Vua Sāla Sức Mạnh Phước Đức.
Ở cõi Phật Suvidita - Nổi Tiếng Tốt Đẹp, có đức Như Lai hiệu là Manojña-ghoṣa-svara-vinardita - Âm Thanh Giọng Nói Vang Lên Ngọt Ngào Thích Ý.
Ở cõi Phật Duraṇya - Khó Chiến Đấu, có đức Như Lai hiệu là Sāla-jaya-bindu-rāja - Vua Giọt Điểm Chiến Thắng Sala.
Ở cõi Phật Nardaścoce - Tiếng Gầm Tinh Khiết, có đức Như Lai hiệu là Tejeśvara-prabhāsa - Chiếu Sáng Chúa Tể Ánh Sáng.
Ở cõi Phật Abhigarjita - Hướng Đến Tiếng Gầm, có đức Như Lai hiệu là Sumanojña-svara-nirghoṣa - Giọng Nói Âm Vang Lớn Ngọt Ngào Tốt Đẹp Thích Ý.
Ở cõi Phật Ratnavisabha - Ngọc Quý Sáng Chói, có đức Như Lai hiệu là Ratna-tala-nāgendra - Rồng Chúa Tể Nền Tảng Ngọc Quý.
Ở cõi Phật Palāma-ratna-vṛkṣa-ratna - Cây Palāma Bảo Châu Ngọc Quý, có đức Như Lai hiệu là Dharma-megha-nirghoṣeśvara-saumya - Âm Thanh Mây Pháp Chúa Tể Thanh Tịnh.
Này thiện nam tử, kể từ những đức Phật tiêu biểu vừa nêu, ở phương Nam ta thấy bằng Phật nhãn, có vô số vô lượng các đức Phật Thế Tôn đang trụ thế, duy trì và thuyết giảng Chánh pháp.
Những vị thuở trước chưa phát khởi tâm Tỉnh thức mà đã được ta an lập, lần đầu tiên được Ta đặt vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và lần đầu tiên đã được Ta an lập vào Bố thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia cho đến Tuệ Giác Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia, đã được Ta dẫn đến nơi các đức Phật Thế Tôn đang trụ thế và duy trì, và tại đó họ lần đầu tiên đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Như vậy, vô số toà ngồi của các đức Phật Thế Tôn ở phương Nam đều chấn động. Tất cả các đức Phật Thế Tôn ấy đều tán dương sắc tướng, danh tiếng và công đức của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai.
Vào lúc ấy, vô lượng vô biên sứ giả của các đức Phật là các vị Bồ Tát từ phương Nam, mang theo những đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng candraroca, đã đến cõi Phật Saha này, để hỏi thăm đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, và để lắng nghe chánh pháp.
Ngay sau khi đức Thế Tôn đã xưng tán danh hiệu của các đức Phật Thế Tôn tại các cõi Phật ở phương Nam, Ngài lại bắt đầu xưng tán danh hiệu của các đức Phật Thế Tôn tại các cõi Phật ở phương Tây. Ngài nói rằng:
Ta thấy, này thiện nam tử, ở phương Tây, từ cõi Phật này vượt qua 970 ngàn tỷ tỷ cõi Phật.
Tại đó, có cõi Phật tên là Upaśānta-mati - Tuệ Tỉnh Thức Mati Lắng Dịu Tịch Diệt, và tại đó có đức Như Lai hiệu là Ratnagiri - Núi Ngọc Quý, đang trụ, an lập, giáo hóa và thuyết pháp.
Chính do ta, mà đức Thế Tôn ấy, thuở xưa khi ta còn là Bồ Tát hành trì lối sống Bồ Tát, lần đầu tiên đã được dẫn dắt vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lần đầu tiên dẫn dắt vào Bố Thí Ba La Mật đưa đến Bờ Bên Kia, cho đến Tuệ Giác Ba La Mật đưa đến Bờ Bên Kia.
Các cõi Phật khác có các đức Như Lai như: Đức Như Lai hiệu Vararaśmikośa - Kho Tàng Tia Sáng Tối Thắng, đức Như Lai hiệu Svarajñakośa - Kho Tàng Ánh Sáng Chính Mình, đức Như Lai hiệu Haritālakīrti - Danh Tiếng Đá Huỳnh Thạch Haritāla, đức Như Lai hiệu Samantagarbha - Tạng Bình Đẳng, đức Như Lai hiệu Brahmakusuma - Hoa Trời Phạm Thiên, đức Như Lai hiệu Karadharavikrama - Tay Uy Lực Trì Giữ, đức Như Lai hiệu Dharmaveśapradīpa - Ngọn Đèn Y Phục Chánh Pháp, đức Như Lai hiệu Asamantara-merusvara-vighuṣṭarāja - Vua Nổi Danh Vang Dội Chúa Tể Núi Meru Không Giới Hạn, Brahmendraghoṣa - Âm Thanh Chúa Tể Phạm Thiên.
Này thiện nam tử, kể từ những đức Phật tiêu biểu vừa nêu, ở phương Tây ta thấy bằng Phật nhãn, có vô số vô lượng các đức Phật Thế Tôn đang trụ thế, duy trì và thuyết giảng Chánh pháp.
Những vị thuở trước chưa phát khởi tâm Tỉnh thức mà đã được ta an lập, lần đầu tiên được Ta đặt vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và lần đầu tiên đã được Ta an lập vào Bố thí Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia cho đến Tuệ Giác Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia, đã được Ta dẫn đến nơi các đức Phật Thế Tôn đang trụ thế và duy trì, và tại đó họ lần đầu tiên đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Như vậy, vô lượng vô biên các đức Phật Thế Tôn ở phương Tây, những vị mà danh hiệu đã được đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai xưng tán, thì toà ngồi của các Ngài đều chấn động.
Vào lúc ấy, vô lượng vô biên sứ giả của các đức Phật là các vị Bồ Tát ở phương Tây, mang theo những đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng Candraroca, đã đến cõi Phật Saha này, và an tọa để lắng nghe chánh pháp.
Tương tự như vậy, đức Thế Tôn cũng đã nói đến các đức Phật, thuở quá khứ, đã được đức Thế tôn lúc còn là Bồ Tát, lần đầu tiên được an lập vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lần đầu tiên được dẫn nhập vào Bố Thí Ba La Mật đưa đến Bờ Bên Kia, cho đến lần đầu tiên được dẫn nhập vào Tuệ Giác Ba La Mật đưa đến Bờ Bên Kia tại phương Bắc, tương tự như vậy, tại phương Trên, phương Dưới, phương Đông-Nam, phương Tây-Nam, phương Tây-Bắc. Các đức Phật Như Lai ở các phương hướng kể trên đã được đức Thế Tôn nhắc đến, và tất cả sứ giả của các đức Phật Thế Tôn ấy, đều mang theo những đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng Candraroca, đã đến cõi Phật Saha này, và an tọa để lắng nghe chánh pháp. (Danh hiệu của các đức Như Lai ở các phương vừa nêu không được các vị kiết tập Kinh Hoa Sen Trắng Puṇḍarīka Đại Bi Thanh Tịnh này ghi vào, có thể các vị ấy không nhớ hết sự kiện ấy, hoặc thực sự đã được ghi, nhưng trải qua quá trình lịch sử, ghi chép lại nội dung Kinh điển này đời sau, đoạn ghi tên của các đức Như Lai ấy đã bị thất lạc).
Lại nữa, đức Thế tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai nói rằng:
Ta thấy, này thiện nam tử, ở phương Đông-Bắc, từ cõi Phật này vượt qua 9.800 tỷ tỷ tỷ cõi Phật.
Tại đó, có cõi Phật tên là Vijaya - Vượt Qua Chiến Thắng, và có đức Như Lai hiệu là Vigata-saṃtāpo-bhava-vaiśravaṇa-sālarāja - Vua Sāla Đa Văn Vaiśravaṇa Diệt Mất Hoàn Toàn Mọi Nhiệt Não Khổ Đau Hiện Hữu.
Chính do ta, mà đức Như Lai ấy, thuở xưa khi ta còn là Bồ Tát, hành trì lối sống Bồ Tát, lần đầu tiên đã được Ta dẫn dắt vào Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho đến lần đầu tiên đã được ta an lập vào sáu Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia. Cho đến việc ta lần đầu tiên dẫn Ngài đến nơi của các đức Phật Thế Tôn, đang trụ và giáo hóa, tại đó, Ngài đã nhận được sự thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác từ các đức Phật Thế Tôn ấy.
Khi đức Thế Tôn tuyên xưng danh hiệu của đức Thế Tôn Vua Sāla Đa Văn Vaiśravaṇa Diệt Mất Hoàn Toàn Mọi Nhiệt Não Khổ Đau Hiện Hữu Như Lai ấy, thì tòa ngồi của đức Như Lai ấy chấn động.
Lúc bấy giờ, tại cõi Phật Vijaya - Vượt Qua Chiến Thắng ấy, có đến 84.000 loài chúng sinh khác nhau về hình tướng, giọng nói và màu sắc, cùng sự sùng kính và ái mộ; những chúng sinh ấy thấy được đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai và nghe được tiếng thuyết chánh pháp của Ngài.
Và trong hội chúng ấy có hai vị Bồ Tát: một vị tên là Vigopaśikhara - Đỉnh Cao Nhất Vigopa, vị thứ hai tên là Saṃrocanabuddha - Toàn Giác Chiếu Sáng Toàn Diện.
Và đức Thế Tôn Vua Sāla Đa Văn Vaiśravaṇa Diệt Mất Hoàn Toàn Mọi Nhiệt Não Khổ Đau Hiện Hữu Như Lai, sau khi gọi hai vị Bồ Tát ấy, liền nói như sau:
Này hai thiện nam tử, hãy đi đến cõi Phật Saha, nhân lời ta mà thưa hỏi đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai về sức khỏe, sự an ổn và cảnh giới tịch tịnh an vui.
Hai vị Bồ Tát ấy thưa rằng: Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, tất cả chúng con đều thấy rõ cõi Phật Saha, gồm cả đất và hư không. Và ở đó không có một chỗ trống dù chỉ cho một chúng sinh, ở trên đất hay trên hư không, mà chúng con có thể an trụ.
Và đức Như Lai ấy nói rằng:
Này thiện nam tử, chớ nói như vậy: ‘Không có chỗ trống trong cõi Phật Saha’.
Vì sao vậy? Này hai thiện nam tử, cõi ấy rộng rãi không có giới hạn, là do đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai có những công đức Toàn Giác của Phật không thể nghĩ bàn. Do bản nguyện thuở quá khứ mà sự từ bi của đức Như Lai ấy thâm nhập vào giáo pháp. Ngài chỉ dạy ba quy y, và thuyết pháp bằng ba thừa. Ngài giảng ba loại giới luật học, và hiển bày ba cửa giải thoát. Ngài cứu vớt chúng sinh khỏi ba đường ác, và an lập chúng sinh vào ba con đường an lành.
Một thời, này thiện nam tử, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, vừa mới thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì quán xét các chúng sinh có khả năng giáo hóa, đang an trú giữa núi śaila đầy hiểm trở, tại cung điện của Dạ Xoa tên là Indrākṣa - Con Mắt Indra, trong động Sala.
Trong bảy ngày, Ngài ngồi thiền với tâm cảm nhận niềm vui và hạnh phúc của sự giải thoát. Và toàn bộ động Sala ấy đều rực sáng bởi thân của đức Như Lai, không còn chỗ trống, dù chỉ bằng bốn lóng tay, mà không được thân của Như Lai chiếu sáng.
Và khi bảy ngày ấy đã qua, từ mười phương có 12 triệu tỷ vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát, đã đến thế giới Saha để đảnh lễ đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Và toàn bộ nội dung được thuật lại giống như mô tả của đức Thế Tôn Vua Ánh Sáng Công Đức Hoàn Toàn Thanh Tịnh Không Cấu Uế Như Lai tại cõi Phật Hoa Nở Rực Rỡ tại phương Đông. Cho đến khi đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai được xem là siêu việt hơn, thù thắng hơn bởi bốn pháp này, so với các đức Như Lai khác.
Các ông, này thiện nam tử, hãy nhận lấy những đóa hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng Candraroca này. Sau khi nhận, hãy đi về phương Tây-Nam, để tự mình thấy cõi Phật Saha. Nhân lời ta mà hỏi thăm đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai về sức khỏe, sự an ổn và cảnh giới tịch tịnh an vui.
Và đức Thế Tôn Vua Sāla Đa Văn Vaiśravaṇa Diệt Mất Hoàn Toàn Mọi Nhiệt Não Khổ Đau Hiện Hữu Như Lai, sau khi lấy hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng Candraroca trao cho Bồ Tát Vigopaśikhara - Đỉnh Cao Nhất Vigopa, và Bồ Tát Saṃrocanabuddha - Toàn Giác Chiếu Sáng Toàn Diện, Ngài nói rằng:
Này hai thiện nam tử, hãy đi đến cõi Phật Saha, nhờ vào sức mạnh thần thông của Ta.
Khi ấy, có 20.000 chúng sinh thưa rằng:
Chúng con, thưa đức Thế Tôn, cũng sẽ đi nhờ thần lực của đức Như Lai đến cõi Phật Saha, để chiêm ngưỡng, đảnh lễ và thân cận cúng dường đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai.
Đức Như Lai ấy nói rằng: Các thiện nam tử, hãy đi theo như chí nguyện của mình.
Khi ấy, hai vị Bồ Tát cùng với 20.000 Bồ Tát nhờ thần lực của đức Như Lai ấy từ cõi Phật Virajā - Vượt Qua Chiến Thắng mà khởi hành. Trong chỉ một sát-na liền đến cõi Phật này và đứng tại núi Linh Thứu. Các vị ấy đứng riêng sang một bên, hướng vể đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, chắp tay và thưa rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, ở phương Đông-Bắc, từ cõi Phật này vượt qua 9.800 tỷ tỷ tỷ cõi Phật. Tại đó, có cõi Phật tên là Vijaya - Vượt Qua Chiến Thắng, và có đức Như Lai hiệu là Vigata-saṃtāpo-bhava-vaiśravaṇa-sālarāja - Vua Sāla Đa Văn Vaiśravaṇa Diệt Mất Hoàn Toàn Mọi Nhiệt Não Khổ Đau Hiện Hữu.
Đức Như Lai ấy đã gửi những đóa hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng Candraroca này và hỏi thăm về sức khỏe, sự an ổn và cảnh giới tịch tịnh an vui của đức Thế Tôn.
Khi ấy, tòa ngồi của đức Như Lai hiệu là Mārabhavana-vidhvaṃsana - Phá Huỷ Cảnh Giới Ma liền chấn động.
Và những vị Bồ Tát nhóm họp tại đó khi thấy tòa ngồi của đức Như Lai Phá Huỷ Cảnh Giới Ma chấn động, liền thưa hỏi Ngài nguyên nhân, và nội dung trao đổi giữa đức Phật và các vị Bồ Tát cũng giống như các đức Phật ở thế giới khác.
Cũng như vậy, đức Như Lai hiệu là Sālendra-rāja - Vua Chúa Tể Sāla, Vikramaraśmi - Ánh Sáng Dũng Mãnh Như Lai, Padmottara - Liên Hoa Tối Thượng Như Lai, Candana - Trầm Hương Candana Như Lai, Merurāja - Vua Núi Meru Như Lai, Sāgara - Đại Hải Như Lai, Sāra-jyoti - Ánh Sáng Tinh Tuý Như Lai, và Jñāna-vikrama - Trí Tuệ Dũng Mãnh Như Lai.
Và khi ấy, vô lượng vô số các đức Như Lai ở phương Đông-Bắc, đã gửi các vị Bồ Tát mang theo những đóa hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng Candraroca, đến cõi Phật Saha để hỏi thăm đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, cúng dường, đảnh lễ và nghe pháp.
Khi ấy, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai bằng thần lực khiến cho thân của mỗi vị Bồ Tát nhóm họp tại cõi Phật Saha đều thu nhỏ lại chỉ bằng kích thước một yojana. Và toàn bộ cõi Phật Saha đều tràn đầy những chúng sinh như vậy, không hề có một khoảng trống nào trong cõi Phật này, dù là trên đất hay trên không trung, mà không có chúng sinh, dù chỉ bằng một khoảng nhỏ như đầu cây kim thuốc bôi thuốc mắt cũng được các chúng sinh lấp đầy. Và tất cả những chúng sinh ấy đều thấy không gian trống rỗng, nhưng không nhìn thấy lẫn nhau. Và những núi Sumeru, vòng xoáy thiên hà cakravāḍa, và vòng xoáy thiên hà lớn mahācakravāḍa cũng không hiện ra trong tầm mắt của họ. Các cung điện trời ở giữa các thế giới từ trên cho đến dưới bánh xe bằng vàng lõi hành tinh, và từ đó trở lên cho đến mặt đất, cũng không hiện ra trong tầm mắt của họ, ngoại trừ chỉ thấy đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Họ chỉ nhìn thấy đức Như Lai.
Và tại đó, đức Thế Tôn nhập vào chánh định samādhi tên là Sự Yên Tĩnh, An Trụ, Lắng Dịu Sau Đoạn Trừ Giới Hạn, Ranh Giới, Phân Định Của Các Pháp Làm Phát Khởi, Dao Động, Rung Động, Lóe Lên Hư Không, Không Gian Vô Ngại (ākāśa-sphuraṇaṃ dharma-avaccheda-praśrabdhi-samādhi)
Khi ấy, những đoá hoa thanh tịnh ánh sáng mặt trăng Candraroca được các Bồ Tát dâng cúng, liền nhập vào tất cả các lỗ chân lông của đức Thế Tôn.
Tất cả các chúng sinh ấy đều thấy rõ rằng trong thế giới saha này, mọi hiện tượng được biểu hiện không phải là thực thể độc lập, mà chỉ là những biểu hiện được tạo thành từ tâm và các tâm sở phụ thuộc của tất cả chúng sinh. Và họ chỉ nhìn thấy các lỗ chân lông của đức Thế Tôn.
Tại đó, họ thấy những khu vườn có nhiều loại cây báu, nhiều loại lá, nhiều loại hoa, kết đầy nhiều loại quả, nhiều loại y phục, được trang hoàng bằng nhiều loại lọng, cờ, phướn, vòng tay và chuỗi ngọc trai. Họ thấy những cây ấy, giống như các khu vườn trong thế giới Cực Lạc Sukhāvatī của đức Thế Tôn A Di Đà Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác. Và tất cả những chúng sinh ấy liền khởi lên ý nghĩ rằng: ‘Chúng ta hãy đi để xem khu vườn này’.
Tất cả những chúng sinh ấy vốn đang ở trong thế giới Saha, ngoại trừ các chúng sinh ở địa ngục, ở cõi Diêm-ma, ở loài súc sinh, và ở cõi vô sắc. Tất cả các chúng sinh còn lại đều từ các lỗ chân lông của đức Như Lai mà đi vào thân thể của Như Lai.
Khi ấy, đức Thế Tôn thu lại thần lực và xuất định. Bấy giờ, các chúng sinh ấy nhìn thấy nhau liền nói rằng: ‘Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai đang ở đâu?’
Bồ Tát Maitreya - Di-lặc nói rằng: ‘Mọi người biết rằng, ngay lúc này, tất cả chúng ta đã nhóm họp lại trong bụng của đức Như Lai’.
Bấy giờ, những chúng sinh ấy thấy thân thể của Như Lai cả bên trong và bên ngoài, thì tự mình trực tiếp chứng ngộ rằng: ‘Chúng ta đã ở trong bụng của Như Lai và đã nhóm họp lại’.
Họ liền khởi ý nghĩ rằng: ‘Từ đâu mà chúng ta vào được trong bụng của Như Lai? Ai đã đưa chúng ta vào trong đây?’
Khi ấy, Bồ Tát Di-lặc thông báo với toàn thể đại chúng bằng giọng nói rằng:
‘Thưa các Hiền giả, hãy lắng nghe sự biến hoá thần thông của Như Lai như thế này, vì bậc Đạo Sư đang đem lại lợi ích cho chúng ta mà thuyết pháp. Các vị hãy tiếp nhận điều đó với toàn tâm toàn ý’.
Bấy giờ, toàn thể đại chúng đều chắp tay.
Khi ấy, đức Thế Tôn thuyết giảng bài pháp về lối sống đem lại mọi an lạc (sarva-sukha-caryā).
Ở đây, thế nào là lối sống đem lại mọi an lạc?
Đó là trạng thái vượt thoát khỏi bùn lầy sinh tử luân hồi, thoát khỏi trạng thái các hành sinh diệt liên tục trong tâm thức, phải trú trong sự động loạn không ngừng, và trạng thái nhập vào con đường Thánh tám ngành, trạng thái thành tựu Tánh Toàn Tri sarva-jñatā và trạng thái hoàn toàn viên mãn trí tuệ của chính mình sinh khởi (svayaṃbhū-jñāna-paripūrṇatā).
Ở đây có 10 cách chuyên tâm thiền định, phát khởi tâm và chuyển hướng công đức, đó là:
Hướng đến an trụ hoàn toàn vào tâm Đại Bi mahā-karuṇā đối với tất cả chúng sinh.
Làm phát sinh, khởi động, tạo ra sự vật, đối tượng, việc làm, sự việc cụ thể mang lại lợi ích, điều thiện, mang lại sự an lạc.
Vận hành, khởi phát, dựng nên, tự mình làm chiếc thuyền lớn với tính chất cứu vớt, làm vượt qua, đưa sang bờ bên kia các chúng sinh chưa vượt qua, còn bị phiền não, vô minh chi phối.
Giải trừ, giải thoát, cởi bỏ hoàn toàn mọi điên đảo, lầm lạc, nhận thức sai lầm, không có chân thực nơi chính mình, trang bị giáp trụ, khả năng giải thoát cho những ai chưa được giải thoát.
Quán sát, thấu triệt sự vô ngã của các pháp nơi chính mình, trang bị áo giáp không run sợ, không sợ hãi với tiếng gầm lớn như sư tử.
Tỉnh thức hiểu biết rất sâu tất cả các pháp qua ví dụ so sánh như hình ảnh trong giấc mộng, và ảo ảnh huyễn hóa, trang bị áo giáp thâm nhập và du hành vào tất cả các cõi giới.
Trạng thái hoàn toàn thanh tịnh, không cấu nhiễm khi an trụ trong giới uẩn, trang bị áo giáp trang nghiêm, trang sức chiếu sáng tất cả các cõi giới.
Thành tựu trọn vẹn, hoàn thiện mọi phẩm chất của tất cả các Ba-la-mật pāramitā đưa đến Bờ Bên Kia, trang bị áo giáp thành tựu hoàn toàn viên mãn 10 sức mạnh của Như Lai.
Trang bị áo giáp nói sao làm vậy, làm sao nói vậy, trang bị áo giáp bốn biện tài thông minh tuyệt đỉnh.
Đạt được 18 pháp đặc biệt phi thường, riêng biệt không ai sánh bằng, trang bị áo giáp đạt được toàn vẹn tất cả pháp Toàn Giác, và thực hành pháp không hý luận, không rơi vào phân biệt như đã được nghe của Bồ Tát.
Đây là 10 cách để nhập vào cửa có lối sống thuận theo chánh pháp.
Lối sống này hướng đến sự thông đạt cửa vô tướng, nơi địa vị bất thoái chuyển an trụ trong quán sát sự vô ngã của tất cả các pháp, với tâm không sinh không diệt, không rơi vào đoạn diệt hay thường còn, trong vòng tròn luân hồi các hành sinh và diệt, thành và hoại.
Quả thật vậy, khi bài giảng pháp này được thuyết giảng, số chúng sinh bằng số cát của 800 triệu sông Hằng — ở trong bụng của Như Lai đã đạt địa vị bất thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và vô số các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát ở đó, đã đạt được nhiều loại Năng lực trì giữ chân lý Dhāraṇī và Nhẫn.
Khi ấy, tất cả mọi người từ các lỗ chân lông trên thân của Như Lai bước ra, tâm tràn đầy sự kỳ diệu, đảnh lễ dưới chân của đức Thế Tôn bằng đầu, rồi trở về thế giới của mình trong mười phương. Họ trở về các cõi Phật của chính mình, để xem phạm vi âm thanh và thân của đức Như Lai.
Ở đó, những vị Bồ Tát đi về phương Đông là vô lượng vô số. Ở phương Đông, sau khi vượt qua các cõi Phật, thì phạm vi âm thanh của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai cũng không bị ngăn ngại.
Và ở đó họ nghe âm thanh với ý nghĩa và lời văn vi diệu, đa dạng, thù thắng, như thể đang nghe pháp từ đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai như người đang ngồi trực tiếp ở trước Ngài, và pháp của Ngài cũng được nghe tại đó.
Và hơn nữa, ngay tại đó, không một ai nhận biết được sự thiếu khuyết hay viên mãn của thân đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Thân của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai hiện rõ trước các vị Bồ Tát và Thanh Văn.
Vô lượng vô số các vị Bồ Tát và các vị Thanh Văn đều thấy mình đang đi vào và bước ra từ một lỗ chân lông của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Cũng như vậy, ở lỗ chân lông thứ hai, cho đến tất cả các lỗ chân lông, họ cũng đều thấy chính mình đang đi vào và bước ra. Và toàn bộ thế giới mười phương, tất cả các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát trong tất cả các cõi Phật đều thấy như vậy.
Lúc bấy giờ, toàn thể đại hội, đang còn ở bên trong thân của đức Thế Tôn, từ các lỗ chân lông trên thân của đức Thế Tôn mà bước ra, đảnh lễ dưới chân của đức Thế Tôn bằng đầu, đi nhiễu ba vòng theo chiều bên phải quanh đức Thế Tôn, rồi đứng đối diện với đức Thế Tôn. Tất cả đều ngợi khen đức Thế Tôn bằng những âm thanh và lời lẽ biểu đạt ý nghĩa vi diệu, đa dạng, và thù thắng.
Khi ấy, các Thiên tử thuộc cõi trời Dục giới và cõi trời Sắc giới, đã làm rơi xuống trận mưa gồm hương thơm, tràng hoa và các loại hương xoa vi diệu và thù thắng. Họ đã tấu lên các loại nhạc cụ cõi trời, và đã chuẩn bị các lọng, phướn, cờ, vải, y phục và các đồ trang sức cõi trời để cúng dường đức Thế Tôn.
Đây là Phẩm thứ sáu có tên là “Các Đức Phật Mười Phương Tán Thán”, thuộc Thánh Kinh Đại Thừa Hoa Sen Trắng Puṇḍarīka Đại Bi Thanh Tịnh, đến đây là hoàn tất.
7. Phẩm Giao Phó Kinh Văn
Lúc ấy có một vị Bồ Tát tên là Vaiśāradyasamuddhāraṇi - Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Không Sợ Hãi Biện Tài Vô Ngại. Vị ấy hướng về đức Thế Tôn, chắp tay và nói với Ngài rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, Kinh tạng sūtrānta đại thọ ký này tên gọi là gì?
Khi ấy, đức Thế Tôn nói rằng:
Kinh này tên là Cửa Vào Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Có Trạng Thái Là Tự Tánh Trí Tuệ Toàn Tri (sarvajñatākāra-dhāraṇī-mukhapraveśa).
Cũng có tên là Vô Số Các Đức Phật Toàn Giác (bahubuddhakam),
Cũng có tên là Vô Số Tập Hợp Tích Luỹ (bahusannipātam),
Cũng có tên là Thọ ký cho Bồ Tát (bodhisattva-vyākaraṇam),
Cũng có tên là trạng thái tối thượng của Con Đường Không Sợ Hãi, Biện Tài Vô Ngại (vaiśāradyamārga-uttāraṇam),
Cũng có tên là Cách Nhập Vào Các Phương Pháp Thiền Định (samādhāna-kalpa-avataraṇaḥ),
Cũng có tên là Hiển Bày Các Cõi Phật (buddhakṣetra-sandarśanaḥ),
Cũng có tên là Ví Dụ Như Biển Cả (sāgara-upamaḥ),
Cũng có tên là Vượt Quá Số Lượng Tính Đếm (gaṇanā-atikrāntaḥ),
Cũng có tên là Hoa Sen Trắng Puṇḍarīka Đại Bi Thanh Tịnh (karuṇā-puṇḍarīkaḥ).
Bồ Tát Vaiśāradyasamuddhāraṇi - Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī Không Sợ Hãi Biện Tài Vô Ngại, lại một lần nữa, hỏi đức Thế Tôn rằng:
Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, thiện gia nam tử hoặc thiện gia nữ tử sẽ tạo ra bao nhiêu khối công đức, nếu họ nghe, thọ trì, ghi nhớ, đọc tụng và tuyên nói rộng rãi cho người khác bài giảng pháp này, chép lại hay nhờ người chép lại, dù chỉ một bài kệ thôi?
Đức Thế Tôn nói rằng:
Ngay từ đầu lúc bắt đầu pháp hội này, Ta đã nói về khối công đức một cách chi tiết rồi (xem chi tiết các lợi ích mang lại khi tu tập tại Phẩm thứ hai - Cửa Vào Sức Mạnh Năng Lực Trì Giữ Chân Lý Dhāraṇī); nay Ta sẽ nói tóm lược.
Nếu ai nghe, thọ trì, ghi nhớ, đọc tụng, và lại vì người khác mà tuyên nói rộng rãi bài giảng pháp này, dù chỉ một bài kệ thôi, và nếu vào thời đại sau này, 50 năm sau, mà chép lại và thọ trì, thì người ấy sẽ tạo ra khối công đức rất nhiều, nhiều bằng khối công đức của Bồ Tát thực hành đủ sáu Ba-la-mật đưa đến Bờ Bên Kia trong 16 đại kiếp.
Tại sao vậy?
Vì người ấy sẽ khiến cho những kẻ có tâm xấu, hư hỏng, độc ác, tà kiến trong toàn thể thế giới gồm: Chư thiên, Ma, Phạm thiên, Sa-môn Bà-la-môn, cùng các chúng sinh thuộc loài thần Dạ-xoa, Rồng, Gandharva, Kinnara, A-tu-la, Quỷ đói preta, quỷ dữ piśāca, Quỷ đói kumbhāṇḍa, đều sanh lòng hoan hỷ; diệt trừ tất cả bệnh tật; làm lắng dịu tất cả cãi vã, xung đột nhỏ, tranh chấp, chiến đấu, đấu tranh, đối lập, chia rẽ, tranh luận, tranh tụng, tranh chấp lớn, kiện tụng trong thời kỳ đen tối không có chánh pháp; làm tiêu trừ tất cả bệnh do gió, tai họa, chết yểu và các bệnh tật; làm chấm dứt mọi nạn đói; mang lại sự an lành, sung túc, đủ đầy phương tiện sinh sống và sức khoẻ; đem lại an vui cho kẻ sợ hãi, khiến họ cảm thấy an toàn; làm lắng dịu, an tĩnh hoàn toàn các phiền não; làm tăng trưởng các căn lành; cứu thoát khỏi khổ đau trong các đường ác và chỉ bày con đường của ba thừa; mang lại trạng thái chứng đắc các chánh định samādhi, năng lực trì giữ chân lý Dhāraṇī, và các nhẫn nhục chịu đựng kṣānti; nuôi dưỡng, làm tăng tưởng tất cả chúng sinh; khiến an trụ vững chắc nơi tòa Kim Cang; làm cho hàng phục bốn ma; khiến hướng đến khai ngộ hoàn toàn các pháp hỗ trợ Tỉnh Thức (bodhipakṣa); làm chuyển bánh xe chánh pháp; khiến cho các chúng sinh không có bảy món báu của bậc Thánh được thành tựu các pháp trợ Tỉnh Thức; có nhiều quyến thuộc. Vì muốn dẫn nhập vào thành phố của sự vô úy, không còn sợ hãi, nên bài giảng pháp này đã được Ta nói ra.
Và nay, Ta sẽ trao bài giảng pháp này vào tay của ai? Ai sẽ giữ gìn bài giảng pháp này sau 50 năm, sẽ tuyên nói vào tai của những chúng sinh đang ở trong cảnh giới phi pháp, vài tai của những Tỳ-kheo phá giới, và ai sẽ làm phát khởi tâm hổ thẹn và cảnh tỉnh cho những chúng sinh còn say đắm trong phi pháp, bị khống chế bởi lòng tham không ngay thẳng, quen thuộc với giáo pháp tà, và có tâm chưa thuần thục?
Ngay lúc ấy, toàn thể hội chúng biết rõ tâm niệm của đức Thế Tôn bằng tâm chính tâm của mình. Bấy giờ, trong hội chúng có một vị tiên Dạ-xoa tên là Merupuṇya - Công Đức Meru đang ngồi. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc Đại Bồ Tát liền dẫn vị tiên Dạ-xoa Công Đức này đến gần đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nói rằng:
Này Đại Tiên, hãy thọ trì bài giảng pháp này, và trong 50 năm sau, hãy tuyên nói vào tai của các vị Bồ Tát không còn thoái chuyển ở các xứ khác, và hôm nay hãy khiến phát khởi tâm không còn thoái chuyển nơi họ.
Khi ấy vị Tiên Dạ Xoa nói rằng: Thưa bậc Hiền Thánh, thưa đức Thế Tôn, trong suốt 84 đại kiếp, trước đây do đại nguyện mà con làm tiên Dạ-xoa, tu tập lối sống Tỉnh Thức để đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và đã có vô số chúng sinh được con an lập trong bốn Phạm Trú và trong địa vị Không còn Thoái chuyển. Và con tự mình sẽ làm cho chúng sinh được thuần thục, cho đến 50 năm sau, những ai thọ trì bài giảng pháp này, hoặc chỉ ghi nhớ một bài kệ gồm bốn câu trong đây.
Đức Thế Tôn nói như vậy. Tất cả hội chúng, cùng với chư thiên, loài người, A-tu-la, và Gandharva, đều hoan hỷ tán thán lời dạy của đức Thế Tôn.
Đây là Phẩm thứ bảy có tên là “Giao Phó Kinh Văn”, thuộc Thánh Kinh Đại Thừa Hoa Sen Trắng Puṇḍarīka Đại Bi Thanh Tịnh, đến đây là hoàn tất.
Đến đây, Thánh Kinh Đại Thừa Hoa Sen Trắng Puṇḍarīka Đại Bi Thanh Tịnh đã kết thúc.
Nguyện cho mọi điều lành đều thành tựu.
Tất cả pháp do nhân duyên sinh,
Nhân duyên ấy Như Lai đã nói,
Và sự diệt tận các pháp ấy,
Bậc Đại Sa Môn cũng đã dạy.
Nguyện cho mọi lúc, mọi thời đều an lành.
Đều là Điều lành, Phúc lành, May mắn, Điềm tốt, Tốt đẹp, và Cát tường.
Comments