Thánh Kinh Tích Luỹ Chánh Pháp (āryasaṃghāṭa sūtram)

 āryasaṃghāṭa sūtram 

Thánh Kinh Tích Luỹ Chánh Pháp


Trần Quang Đăng dịch từ Sanskrit sang Việt văn

Dịch xong ngày 28/06/2025 tại Saigon, Việt Nam


Link tải Thánh Kinh Tích Luỹ Chánh Pháp - Tải tại đây

Tự mình an lành nơi chính mình, là hoàn toàn quy mạng tất cả các đức Phật và Bồ Tát.


I. Phẩm Các Câu Hỏi Của Bồ Tát Nhất Thiết Dũng - Lần 1

Sarvaśūraparipṛcchā (1)


1. Như vậy tôi nghe: Một thời, đức Thế Tôn đang cư trú tại thành rā-ja-gṛi-ha - Vương Xá, trên núi Gri-đra-kū-ṭa - Linh Thứu, cùng với một đại chúng Tỳ-kheo.


2. Cùng với 22.000 vị Tỳ-kheo, như là: Trưởng lão A-nhã Kiều-trần-như (ā-jñā-ta-kauṇ-đi-na), Trưởng lão Ma-ha Mục-kiền-liên (ma-hā-maud-ga-liā-ya-na), Trưởng lão Xá-lợi-phất (śā-ra-dva-tī-pu-tra), Trưởng lão Ma-ha Ca-diếp (ma-hā-kāś-sa-pa), Trưởng lão Rā-hu-la, Trưởng lão Bak-ku-la, Trưởng lão Bhad-ra-vā-sa (Hiền Trú), Trưởng lão Bha-đra-śrī (Hiền Đức), Trưởng lão Nan-đa-śrī (Hỷ Đức), Trưởng lão Jāṅ-gu-la, Trưởng lão Tu-bồ-đề (su-bhū-ti), Trưởng lão Rê-va-ta, Trưởng lão Nan-đa-sê-na (Hỷ Quân), và Trưởng lão Ā-nan-đa (Khánh Hỷ), cùng với các vị Trưởng lão khác như thế, hợp thành đại chúng gồm 22.000 vị Tỳ-kheo.


3. Cùng với 62.000 vị Bồ Tát, đứng đầu là: Bồ Tát Di Lặc Đại Bồ Tát (mai-tre-ya), Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát (sar-va-śū-ra), Bồ Tát Đồng Tử Đức Đại Bồ Tát (ku-mā-ra-śri-yā), Bồ Tát Đồng Tử Cư Trú Đại Bồ Tát (ku-mā-ra-vā-si-nā), Bồ Tát Đồng Tử Hiền Đại Bồ Tát (ku-mā-ra-bha-dra), Bồ Tát A-nu-na Đại Bồ Tát (a-nū-na), Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Đồng Chơn Đại Bồ Tát (mañ-ju-śrī), Bồ Tát Phổ Hiền Đại Bồ Tát (sa-man-ta-bha-dra), Bồ Tát Thiện Kiến Đại Bồ Tát (su-dar-śa-na), Bồ Tát Dược Vương Đại Bồ Tát (bhai-ṣaj-ya-rā-ja), Bồ Tát Kim Cang Quân Đại Bồ Tát (vaj-ra-se-na), và nhiều vị Bồ Tát như thế, hợp thành đại chúng gồm 62.000 Bồ Tát.


4. Cùng với 62.000 Thiên tử, đứng đầu là: Thiên tử ar-ju-na, Thiên tử Hiền (bha-dra), Thiên tử Thiện Hiền (su-bha-dra), Thiên tử Pháp Hỷ (dhar-ma-ru-ci-na), Thiên tử Trầm Hương Tạng (can-da-na-gar-bha), Thiên tử Nguyệt Trú (can-da-vā-si-na), Thiên tử Trầm Hương (can-đa-na), Thiên tử Trầm Hương Quân (can-đa-na-se-na), và nhiều vị Thiên tử như thế, hợp thành hội chúng gồm 62.000 Thiên tử.


5. Cùng với 8.000 Thiên nữ, đứng đầu là: Thiên nữ Trống Lớn (mṛi-đaṃ-gi-nī), Thiên nữ Lâu Các Trang Nghiêm (prā-sā-đa-va-tī), Thiên nữ Hợp Nhất Với Đại Tâm (ma-hāt-ma-saṃ-pra-yuk-tā), Thiên nữ Mưa Lành (var-ṣa-śri-yā), Thiên nữ Liên Hoa Đức (pad-ma-śri-yā), Thiên nữ Ở Tại Cõi Chủ Tể Sáng Tạo (pra-jā-pa-ti-vā-si-nī), Thiên nữ Hùng Lực (ba-li-nī), Thiên nữ Tay Lành Đẹp (su-bā-hu-yuk-tā), và nhiều vị Thiên nữ như thế, hợp thành đại chúng gồm 8.000 Thiên nữ.


6. Cùng với 8.000 Long vương, đứng đầu là: Long vương A-pa-la-la, Long vương Diệp Phiến (e-la-pa-tra), Long vương Ti-miṅ-gi-la, Long vương Bình Bảo Căn (kuṃ-bha-sā-ra), Long vương Bình Thủ (kuṃ-bha-śīr-ṣa), Long vương Thiện Hỷ (su-nan-đa), Long vương Thiện Chi (su-śā-kha), Long vương Ngưu Thủ (ga-va-śīr-ṣa), và nhiều vị Long vương như thế, hợp thành hội chúng gồm 8.000 Long vương.


7. Tất cả những vị ấy, hướng về đại thành Vương Xá, hướng về núi Linh Thứu, và đi hướng về đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác. Khi đã đến gần, họ cúi đầu đảnh lễ nơi chân của đức Thế Tôn, rồi đi nhiễu quanh ba vòng theo chiều bên phải đức Thế Tôn, rồi đứng trước mặt Ngài.


8. Họ liền thưa rằng:


Mong đức Thế Tôn hãy thuyết pháp, mong đức Thiện Thệ hãy thuyết pháp, vì nhờ nghe pháp ấy, chúng con có thể mau chóng chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và cũng để sự tiêu trừ các nghiệp chướng của tất cả chúng sinh được thành tựu.


Đức Thế Tôn liền im lặng chấp thuận.


9. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y lên một bên vai, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay cung kính hướng về phía đức Thế Tôn, và thưa với đức Thế Tôn rằng:


10. Thưa đức Thế Tôn, có vô số hàng tỷ chư Thiên, có vô số hàng tỷ tiên nữ Ap-sa-rā, có vô số hàng tỷ Bồ Tát, có hàng chục ngàn Thanh Văn, thưa đức Thế Tôn, họ đều đã tụ hội, an tọa, để lắng nghe chánh pháp.


Do vậy, xin đức Thế Tôn, đối với những vị đã tụ hội và đã an tọa ấy, xin Ngài hoan hỷ thuyết pháp.


Xin Đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, hãy thuyết về cách thức “thâm nhập vào pháp với bản chất chơn thật như nó đang là”.


Chính điều ấy sẽ đem lại lợi ích, an lành và hạnh phúc lâu dài cho họ, cho cả chư Thiên và loài người.


Khi cách thức “thâm nhập vào pháp với bản chất chơn thật như nó đang là” được chỉ dạy, thì các chúng sinh lớn tuổi, nhờ lắng nghe pháp, tất cả các nghiệp chướng ngại của họ sẽ được tiêu trừ; và các chúng sinh trẻ tuổi, khi thực hành các thiện pháp, sẽ đạt được điều kỳ diệu. Họ sẽ không bị thoái lui, không bị tổn giảm nơi các pháp lành.


11. Khi điều ấy được nói ra, đức Thế Tôn liền bảo Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát như sau:


Lành thay! Lành thay! Này Nhất Thiết Dũng. Thật lành thay, này Nhất Thiết Dũng! Ông cho rằng cần phải thưa hỏi đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác về ý nghĩa này – là việc rất đúng đắn.


Vậy thì, này Nhất Thiết Dũng, hãy lắng nghe, và hãy khéo léo, thật kỹ lưỡng ghi nhớ.


12. “Thưa vâng, thưa đức Thế Tôn” – Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, liền vâng theo và lắng nghe lời dạy của đức Thế Tôn.


13. Đức Thế Tôn liền nói như sau:


Có, này Nhất Thiết Dũng, một bài giảng về Chánh Pháp, nhờ bài giảng pháp ấy, năm nghiệp chướng vô gián của tất cả chúng sinh sẽ được tiêu trừ, và các nghiệp chướng khác cũng sẽ tiêu trừ, và họ sẽ nhanh chóng thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng hỏi: 


Thưa đức Thế Tôn, bài giảng về Chánh pháp đó là gì? 


14. Đức Thế Tôn nói rằng:


Bài giảng pháp ấy có tên là Cách Tích Luỹ Chánh Pháp (Saṃ-ghā-ṭa). 


Bài giảng pháp này sẽ được lưu truyền trong cõi Diêm-phù-đề (jam-bu-dvī-pa), vào thời hiện tại.


Bất kỳ ai, này Nhất Thiết Dũng, nghe được bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, thì năm nghiệp vô gián của người ấy sẽ được tiêu trừ. Họ sẽ trở thành những người không còn thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


15. Vậy thì, này Nhất Thiết Dũng, ý ông thế nào? Người nào nghe được bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, giả sử có một người đã tích lũy một khối công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu bằng cách cúng dường một đức Như Lai, thì người ấy sẽ tích lũy được một lượng công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu tương đương với người nghe được bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này chăng?


Không nên thấy như thế, này Nhất Thiết Dũng!


16. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng: Vậy thì, thưa đức Thế Tôn, phải thấy như thế nào?


Đức Thế Tôn dạy rằng:


Như khối lượng công đức được tích lũy khi cúng dường số lượng các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, nhiều như số cát trong sông Hằng, thì này Nhất Thiết Dũng, các chúng sinh nghe được bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, sẽ tích lũy được khối lượng công đức lớn bằng như vậy.


Những ai, này Nhất Thiết Dũng, lắng nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, tất cả những người ấy sẽ trở thành bậc không còn bị thoái chuyển khỏi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như Lai thấy được tất cả họ. Tất cả họ sẽ trở thành những người được thấy Như Lai. Tất cả họ sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Họ sẽ trở nên bất khả xâm hại khỏi ác Ma. Tất cả họ sẽ đạt được những thiện pháp ấy.


Những ai, này Nhất Thiết Dũng, lắng nghe kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, tất cả họ đều sẽ hiểu biết về sự sinh khởi và diệt tận.


17. Lúc bấy giờ, tất cả các vị Bồ Tát và các vị Đại Thanh Văn đã tụ hội, cùng vô số hàng tỷ chư Thiên, Rồng, loài người, và tiên nữ ap-sa-ra, vào lúc ấy, tất cả họ đều đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đắp thượng y lên một bên vai, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, hướng về phía đức Thế Tôn, tất cả đều hỏi đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, khối lượng công đức nếu một người đã cúng dường một đức Như Lai là bao nhiêu?


18. Đức Thế Tôn dạy rằng:


Hãy lắng nghe, này các thiện nam tử. Nói về khối lượng công đức của một đức Phật, thì phải lấy ví dụ. 


Ví như số giọt nước trong đại dương, ví như số hạt hạ lượng tử trong cõi Diêm-phù-đề, ví như số chúng sinh nhiều bằng số cát trong sông Hằng, tất cả những chúng sinh ấy nếu đều là các vị Bồ Tát đã an trụ trong tầng địa thứ mười.


Và khối lượng công đức của Hằng Hà Sa số các vị Bồ Tát an trụ trong tầng địa thứ mười ấy, đem so với khối lượng công đức của một đức Phật, thì khối lượng công đức của một đức Phật còn nhiều hơn khối lượng ấy, là vô lượng vô biên, không thể so sánh, không thể tính đếm được, không thể dùng suy nghĩ tưởng tượng mà biết được.


Khối lượng công đức của Hằng Hà Sa các vị Bồ Tát ấy, được ví như một giọt nước trong đại dương, còn khối lượng công đức của một đức Phật là toàn thể nước trong đại dương ấy.


Khối lượng công đức của Hằng Hà Sa các vị Bồ Tát ấy, được ví như một hạt hạ lượng tử, còn khối lượng công đức của một đức Phật là toàn thể các hạt hạ lượng tử hình thành toàn bộ cõi Diêm Phù Đề này.


Do đó, này Nhất Thiết Dũng, người nào cúng dường một đức Như Lai, thì khối lượng công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu được tích luỹ nơi người ấy còn nhiều hơn khối lượng công đức của Hằng Hà Sa số các vị Bồ Tát.


Những ai nghe được bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, khối lượng công đức ấy nhiều đến mức không thể đạt đến giới hạn tận cùng bằng sự tính đếm, tương đương với khối lượng công đức khi cúng dường số lượng các đức Như Lai nhiều như cát trong sông Hằng.


Này Nhất Thiết Dũng, những ai, trong lúc, hay sau khi nghe được bài giảng pháp này, khởi lên đại dũng mãnh tinh tấn, thì người ấy sẽ tích lũy được một khối công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu, là vô lượng vô biên.


19. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, những chúng sinh nào sẽ trở thành những người khát cầu được thấm nhuần chánh pháp?


Khi điều này được nói đến, đức Thế Tôn liền bảo Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát rằng:


Có hai loại chúng sinh, này Nhất Thiết Dũng, là những người khát cầu được thấm nhuần chánh pháp.


Hai loại người này là gì?


Một, này Nhất Thiết Dũng, là người có tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh.


Hai, này Nhất Thiết Dũng, là người sau khi nghe chánh pháp, liền giảng giải một cách bình đẳng cho tất cả chúng sinh.


Hai loại người này là những người khát cầu được thấm nhuần chánh pháp.


20. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, pháp nào, mà sau khi nghe, có thể khiến cho người ấy giảng dạy bình đẳng cho tất cả chúng sinh?


Đức Thế Tôn dạy rằng:


Loại người thứ nhất, này Nhất Thiết Dũng, sau khi nghe Cách Tích Lũy Chánh Pháp, liền hoàn toàn xoay chuyển hướng tâm về Tỉnh thức. Và sau khi người ấy đã hoàn toàn xoay chuyển hướng tâm về Tỉnh thức, người ấy biết rằng tất cả chúng sinh cũng sẽ trở thành những người khát cầu được thấm nhuần chánh pháp để chúng sinh có thể hoàn toàn xoay chuyển hướng tâm về Tỉnh thức, nên người ấy có thể giảng dạy bình đẳng cho tất cả chúng sinh.


Loại người thứ hai, này Nhất Thiết Dũng, là người dẫn dắt tất cả chúng sinh vào pháp có thể ngồi và khởi hành trên cỗ xe Đại thừa, là cỗ xe Toàn Giác, có đích đến là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên có thể giảng dạy bình đẳng cho tất cả chúng sinh.


Những người ấy luôn luôn là người khát cầu được thấm nhuần chánh pháp.


21. Lúc bấy giờ, có hàng tỷ chư Thiên, Rồng, loài người, và tiên nữ ap-sa-ra liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính, họ đứng trước mặt đức Thế Tôn, và thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, chúng con là những người khát cầu được thấm nhuần chánh pháp. Kính mong đức Thế Tôn hãy làm viên mãn lòng mong cầu của chúng con và của tất cả chúng sinh.


22. Lúc bấy giờ, ngay trong khoảnh khắc ấy, đức Thế Tôn mỉm cười.


Khi ấy, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính hướng về phía đức Thế Tôn, liền thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, nhân là gì? Duyên là gì khiến Ngài mỉm cười?


23. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói với Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát rằng:


Này Nhất Thiết Dũng, những chúng sinh nào, sau khi đến nghe pháp hội này, tất cả những vị ấy đều sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tất cả những vị ấy đều sẽ viên mãn và hoàn toàn thành tựu được cảnh giới của Như Lai.


24. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, nhân là gì? Duyên là gì, mà khiến cho những chúng sinh ấy, sau khi đến nghe pháp hội này, đều sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?


Đức Thế Tôn dạy rằng:


Lành thay! Lành thay! Này Nhất Thiết Dũng. Ông cho rằng cần phải thưa hỏi đức Như Lai về ý nghĩa này – là việc rất đúng đắn. Vậy thì, này Nhất Thiết Dũng, hãy lắng nghe.


Này Nhất Thiết Dũng, ở đây cần phải thấy rõ điểm đặc biệt trong việc hoàn toàn xoay chuyển hướng tâm.


25. Này Nhất Thiết Dũng, đã từng có việc này xảy ra trong quá khứ, trải qua vô lượng vô biên a-sam-khê kiếp (1 a-saṃ-khê = 107 x 2^103, tức là sau số 10 có hàng trăm triệu tỷ tỷ tỷ tỷ tỷ tỷ số 0 theo sau), vào thời điểm ấy, trong thế gian đã xuất hiện một đức Phật hiệu là Rat-na-śrī - Bảo Đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ trí tuệ và phạm hạnh, là bậc Thiện Thệ, là bậc hiểu rõ thấu suốt các thế gian, là bậc vô thượng không ai hơn được, là bậc điều ngự các trượng phu, là Thầy dẫn đường của chư thiên và loài người, là đấng Giác Ngộ Toàn Giác, là đức Thế Tôn.


26. Này Nhất Thiết Dũng, vào thời đó, ta từng là một cậu học trò độ tuổi thiếu niên tên là mā-ṇā-va-ka. Những chúng sinh mà hiện nay đang hiện diện ở đây, đã được ta an lập vào Trí Toàn Giác, thì vào thời điểm ấy, tất cả những vị ấy đều là các loài thú.


Vào lúc ấy, chính ta đã phát nguyện như sau:


Bất cứ những con thú nào, hiện đang bị khổ đau bức bách, nguyện cho tất cả những con thú ấy được sinh về cõi Phật của ta. Và tất cả những con thú ấy sẽ được ta an lập vào Trí Toàn Giác.


Những con thú ấy, sau khi nghe lời phát nguyện đó của ta, đã nói lời như sau: “Nguyện cho điều ấy được thành tựu.”


Do bởi căn lành ấy, này Nhất Thiết Dũng, các chúng sinh nào, sau khi đến nghe pháp hội này, tất cả họ đều sẽ thành tựu được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


27. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, sau khi nghe được sự tinh tấn ấy từ nơi đức Thế Tôn, liền thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, tuổi thọ của những chúng sinh ấy sẽ là bao nhiêu?


Đức Thế Tôn dạy rằng: Tuổi thọ của các chúng sinh ấy sẽ là 84.000 kiếp.


28. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, đơn vị thời gian của một kiếp là bao nhiêu?


Đức Thế Tôn dạy rằng: 


Hãy lắng nghe, này thiện nam tử.


Lấy một ví dụ, này Nhất Thiết Dũng, có một người xây dựng một thành phố có chiều rộng là 12 yo-ja-na (144 kilomet), và chiều cao là 3 yo-ja-na (36 kilomet). Thành phố ấy được làm đầy bằng các hạt mè. Và người ấy sống thọ cho đến hết đời, sống cho đến khi rụng tóc bạc đầu.


Rồi sau khi cứ trải qua một trăm năm, người ấy lấy ra từ thành phố chứa đầy hạt mè ấy mỗi lần một hạt mè. Cứ tuần tự như vậy, người ấy lấy hết tất cả những hạt mè ấy, cho đến khi sạch hết. Và khi ấy, nền móng thành phố ấy hoàn toàn sụp đổ và thành cũng hoàn toàn biến mất. Thế mà, cho đến khi ấy, một kiếp vẫn chưa hết. [Theo ví dụ này, giới hạn tối thiểu của một kiếp sẽ là 2488 triệu tỷ tỷ năm]


29. Lại nữa, này Nhất Thiết Dũng, ta sẽ nêu một ví dụ khác để làm rõ chính ý nghĩa này.


Ví như có một ngọn núi có kích thước rộng 25 yo-ja-na (300 kilomet), và cao 12 yo-ja-na (144 kilomet). Lúc đó, có một người cất một ngôi nhà gần bên sườn núi ấy. Và người ấy, sau mỗi một trăm năm lại dùng một tấm vải lụa mỏng của thành Kā-śī lau lên núi một lần. Cứ làm như vậy, cuối cùng ngọn núi ấy bị mòn hết. Thế nhưng, một kiếp vẫn chưa chấm dứt. [Theo ví dụ này, giới hạn tối thiểu của một kiếp sẽ là 648 tỷ tỷ tỷ năm, với điều kiện tấm vải lụa mỏng có diện tích là hai mươi centimet vuông, nếu tấm vải lụa mỏng có diện tích là 10 centimet vuông, thì giới hạn tối thiểu của một kiếp sẽ là 1296 tỷ tỷ tỷ năm, biết rằng, tuổi của vũ trụ hiện tại chỉ là 13.5 tỷ năm]


Này Nhất Thiết Dũng, đó là thí dụ cho độ dài của một kiếp.


30. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y lên một bên vai, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay cung kính hướng về phía đức Thế Tôn, liền thưa với đức Thế Tôn rằng:


Chỉ với một sự hoàn toàn xoay chuyển hướng tâm duy nhất, thưa đức Thế Tôn, đã có thể tạo thành khối lượng công đức lớn như thế. Nghĩa là, tuổi thọ an vui sẽ kéo dài đến 84.000 kiếp. Huống chi là người thực hành sự phụng sự lớn hơn nữa trong giáo pháp của Như Lai, tuổi thọ của người ấy sẽ là bao nhiêu?


31. Đức Thế Tôn dạy rằng: Hãy lắng nghe, này thiện nam tử.


Ai lắng nghe kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, người ấy sẽ có tuổi thọ là 84.000 kiếp. Huống chi là người sao chép và thuyết giảng kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, người ấy, này Nhất Thiết Dũng, sẽ tích lũy khối lượng công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu còn nhiều hơn nữa.


Người nào, này Nhất Thiết Dũng, với tâm hoan hỷ, phát tâm sâu xa lễ bái kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, người ấy trong 95 kiếp, sinh ra đều có Túc Mạng Trí – nhớ được các đời sống quá khứ của mình. Suốt 60.000 kiếp, người ấy sẽ làm vua Chuyển luân Thánh vương.


Ngay trong đời này, khi thấy được pháp này, này Nhất Thiết Dũng, người ấy sẽ được mọi người yêu mến và kính trọng.


Người ấy, này Nhất Thiết Dũng, sẽ không chết vì binh khí. Người ấy sẽ không chết vì chất độc, nước hay lửa. Chim cú hoặc quạ sẽ không bay qua người ấy.


Vào lúc lâm chung, khi đang hiện hữu trong sự diệt tận sau cùng, người ấy sẽ thấy 950 triệu đức Phật hiện ra trước mặt. Các đức Phật ấy, này Nhất Thiết Dũng, sẽ an ủi người ấy rằng: 


“Đừng sợ hãi, này thiện nam tử! Con đã nghe bài giảng pháp lớn về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp, được giảng dạy khéo léo. Nhờ đó, khối lượng công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu nơi con đã được sinh ra.”


950 triệu đức Phật Thế Tôn, mỗi vị ở mỗi một thế giới khác nhau, sẽ thọ ký cho người ấy, huống chi, này Nhất Thiết Dũng, ai là người lắng nghe toàn bộ, đầy đủ bài giảng pháp lớn về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, mà sao chép, đọc tụng, và tư duy rất sâu về kinh này.


32. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, liền thưa với đức Thế Tôn như sau:


Thưa đức Thế Tôn, con sẽ lắng nghe bài giảng pháp lớn về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, thưa đức Thế Tôn, con sẽ tích lũy được bao nhiêu khối lượng công đức?


Đức Thế Tôn dạy rằng:


Ví như số lượng các đức Phật nhiều bằng số cát trong sông Hằng, nếu cúng dường các đức Phật ấy, thì khối lượng công đức từ việc cúng dường, này Nhất Thiết Dũng, người lắng nghe bài giảng pháp này sẽ tích lũy khối lượng công đức lớn bằng như vậy.


33. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, mỗi khi con lắng nghe bài giảng pháp về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, con không hề cảm thấy mãn nguyện, thưa đức Thế Tôn.


Đức Thế Tôn nói rằng:


Lành thay! Lành thay! Này Nhất Thiết Dũng. Ông không cảm thấy mãn nguyện đối với chánh pháp – điều ấy rất tốt. Ngay cả ta, này Nhất Thiết Dũng, cũng không cảm thấy mãn nguyện đối với chánh pháp. Huống chi, này Nhất Thiết Dũng, những người phàm phu ngu si lại cho rằng mình đã thỏa mãn!


34. Này Nhất Thiết Dũng, bất kỳ ai, dù là thiện gia nam tử, hay thiện gia nữ tử, khởi tín tâm nơi cỗ xe Đại thừa, thì người ấy trong suốt 1000 kiếp sẽ không rơi vào ác đạo. Trong 5000 kiếp, người ấy sẽ không sinh vào loài súc sinh. Trong 12.000 kiếp, người ấy sẽ không trở thành kẻ ác trí. Trong 18.000 kiếp, người ấy sẽ không sinh vào biên địa hẻo lánh. Trong 20.000 kiếp, người ấy sẽ trở thành người dũng mãnh trong bố thí. Trong 25.000 kiếp, người ấy sẽ sinh lên các cõi trời. Trong 35.000 kiếp, người ấy sẽ sống phạm hạnh. Người ấy, trong 40.000 kiếp, sẽ là người xuất gia. Trong 50.000 kiếp, người ấy sẽ là người trì giữ chánh pháp. Trong 65.000 kiếp, người ấy sẽ tu tập pháp quán niệm về cái chết.


Này Nhất Thiết Dũng, bất luận là thiện nam hay thiện nữ, nơi người ấy sẽ không có bất kỳ nghiệp ác nào. Và ác Ma sẽ không có cơ hội tác động đến người ấy. Người ấy sẽ không bao giờ còn tái sinh vào bụng mẹ.


Này Nhất Thiết Dũng, những ai lắng nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, thì dù họ sinh ở đâu, ở bất kỳ nơi nào, trong 95 a-sam-khê kiếp, họ sẽ không rơi vào ác đạo.


Trong 80.000 kiếp, họ sẽ là những người giữ gìn và truyền bá chánh pháp nhờ khả năng nghe – nhớ – thuyết giảng không sai lạc.


Suốt 100.000 kiếp, họ sẽ giữ giới không sát sinh. Trong 99.000 kiếp, họ sẽ giữ giới không vọng ngữ. Trong 13.000 kiếp, họ sẽ giữ giới không nói lời hai lưỡi.


Này Nhất Thiết Dũng, những chúng sinh lắng nghe được bài giảng pháp này là điều rất hiếm có.


35. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đắp thượng y lên một bên vai, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay cung kính hướng về phía đức Thế Tôn, liền thưa với đức Thế Tôn rằng:


Những ai khước từ bài giảng pháp này, thưa đức Thế Tôn, những chúng sinh ấy sẽ tích lũy bao nhiêu nghiệp bất thiện?


Đức Thế Tôn dạy rằng:


Rất nhiều, này Nhất Thiết Dũng, là nghiệp bất thiện sẽ sinh khởi do việc khước từ Chánh Pháp.


36. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, khối nghiệp chướng ác của các chúng sinh ấy sẽ lớn đến mức nào?


Đức Thế Tôn nói rằng:


Đủ rồi, đủ rồi, này Nhất Thiết Dũng, chớ nên tiếp tục hỏi ta về khối lượng nghiệp chướng ác.


Nhưng này Nhất Thiết Dũng, hãy lắng nghe, ta sẽ trình bày rõ về khối lượng các ác bất thiện được tích lũy của những người khước từ Chánh Pháp, và bao nhiêu khối lượng các ác bất thiện mà những người khước từ Chánh pháp ấy sẽ thọ nhận.


Và này Nhất Thiết Dũng, nếu có người khởi tâm ác trước mặt 120 triệu Hằng Hà Sa các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, và người nào khước từ kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, thì người ấy sẽ tạo ra khối lượng các ác bất thiện còn nhiều hơn thế nữa. Vì lý do ấy, này Nhất Thiết Dũng, mà họ sẽ tích lũy khối lượng bất thiện.


Do vậy, này Nhất Thiết Dũng, những chúng sinh khước từ Chánh Pháp sẽ tích lũy khối lượng bất thiện còn nhiều hơn khối lượng ác bất thiện nếu người ấy khởi ác tâm trước 120 triệu Hằng Hà Sa các đức Như Lai.


Những ai khởi tâm oán hận, thù ghét đối với cỗ xe Đại thừa, thì những chúng sinh ấy, này Nhất Thiết Dũng, thật sự họ đã bị thiêu đốt, thân và tâm của họ hoàn toàn đang bị thiêu cháy bởi chính tâm oán hận và thù ghét ấy, từ đó còn bị thiêu cháy bởi rất nhiều tâm tiêu cực khác phát sinh nơi họ liên tục không ngừng, như ngọn lửa lớn cháy cả ngày đêm, kéo dài xuyên suốt không gián đoạn.


37. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, những chúng sinh ấy không thể được cứu độ.


Đức Thế Tôn nói rằng:


Hãy lắng nghe, này Nhất Thiết Dũng; thật sự là không thể cứu độ được những chúng sinh ấy.


Lấy một ví dụ, này Nhất Thiết Dũng, có một người chặt đầu của một chúng sinh nào đó. Sau đó, người ấy dùng thuốc, hoặc mật ong, hoặc đường kết tinh, hoặc mật mía, hoặc bơ sữa, hoặc dầu, mà bôi lên chỗ đầu bị chặt đó. Này Nhất Thiết Dũng, ý ông nghĩ sao? Liệu chúng sinh bị chặt đầu ấy có thể được làm sống lại không?


38. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Không thể được, thưa đức Thế Tôn, không thể được, thưa đức Thiện Thệ.


Đức Thế Tôn dạy rằng:


Đúng vậy, này Nhất Thiết Dũng, người ấy thật sự không thể cứu độ được. Người nào, dù có dùng nhiều phương tiện, mà đã khởi tâm oán hận, thù ghét đối với cỗ xe Đại thừa, thì người ấy không thể cứu độ được.


39. Lại nữa, này Nhất Thiết Dũng, lấy một ví dụ khác, có hai người, dùng vũ khí bén nhọn để đánh nhau. Người này không thể giết chết sinh mạng của người kia chỉ bằng một đòn đánh. Tuy nhiên, này Nhất Thiết Dũng, một vết thương sẽ phát sinh trên thân của người ấy, và rồi, cần phải áp dụng sự trị liệu bằng thuốc men. Lúc bấy giờ, người ấy đã được chữa lành khỏi vết thương. Khi được chữa lành, người ấy sẽ hồi tưởng về nỗi đau đã trải qua. Người ấy tự nói: “Nay tôi đã biết sự khổ não của đau đớn, tôi sẽ không bao giờ tạo tác những việc làm ác bất thiện nữa.”


40. Cũng giống như vậy, này Nhất Thiết Dũng, người đã khước từ Chánh Pháp, khi đang chịu khổ đau trong địa ngục, khi ấy, người ấy sẽ tránh xa mọi điều ác. Khi người ấy tránh xa mọi điều ác, người ấy sẽ đối diện trực tiếp với tất cả các pháp.


Khi người ấy đã đối diện trực tiếp với tất cả các pháp, người ấy sẽ thành tựu viên mãn tất cả các pháp lành.


Lấy một ví dụ, này Nhất Thiết Dũng, một người lúc cha mẹ sắp lâm chung, sẽ than khóc, đau buồn, nhưng không thể nào cứu được cha mẹ của người ấy.


Cũng vậy, này Nhất Thiết Dũng, những chúng sinh phàm phu ngu si không thể làm lợi ích cho chính mình hay cho người khác. Họ trở nên tuyệt vọng, như thể đã mất đi cha mẹ. Cũng như vậy, này Nhất Thiết Dũng, những chúng sinh ấy sẽ trở nên tuyệt vọng vào lúc lâm chung.


41. Có hai hạng người, này Nhất Thiết Dũng, sẽ rơi vào cảnh tuyệt vọng vào lúc lâm chung.


Hai hạng người ấy là ai?


Một là, chúng sinh đã tự mình làm hoặc khiến người khác làm việc làm ác.


Hai là, này Nhất Thiết Dũng, là những người khước từ Chánh Pháp.


Hai hạng người này sẽ rơi vào tuyệt vọng vào lúc lâm chung.


42. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa Bậc Hiền Thiện Thế Tôn, những chúng sinh ấy sẽ đi về đâu? Đường tái sinh cuối cùng của họ sẽ là gì?


Đức Thế Tôn dạy rằng:


Này Nhất Thiết Dũng, con đường của những chúng sinh khước từ Chánh Pháp là vô tận. Đường tái sinh của họ cũng vô tận.


Trong suốt một kiếp, này Nhất Thiết Dũng, họ sẽ thọ nhận khổ đau cực độ một kiếp trong địa ngục lớn Não Nhiệt Rau-ra-va, một kiếp trong địa ngục lớn Tích Tập Saṃ-ghā-ta, một kiếp trong địa ngục lớn Nóng Cháy Ta-pa-nā, một kiếp trong địa ngục lớn Thiêu Cháy Pra-tā-pa-nā, một kiếp trong địa ngục lớn Đường Kẻ Nung Đỏ Kā-la-sū-tra, một kiếp trong địa ngục lớn Sóng Lớn ma-hā-vī-ca, một kiếp trong địa ngục lớn Khiếp Rợn ro-ma-har-ṣa, một kiếp trong địa ngục lớn Vừa Khóc Vừa Cười Hā-hā, rồi lặp lại một kiếp trong địa ngục lớn Nóng Cháy Ta-pa-nā.


Này Nhất Thiết Dũng, trong tám địa ngục lớn này, những chúng sinh khước từ Chánh Pháp sẽ phải trải qua khổ đau trong suốt tám kiếp.


43. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, thưa với đức Thế Tôn rằng: 


Khổ quá, thưa đức Thế Tôn, khổ quá, thưa Thiện Thệ, con không đủ sức để lắng nghe nữa.


Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, ngay trong khoảnh khắc ấy, đã nói ra các bài kệ như sau:


1. Ông không thể nào chịu đựng được, 

Khi nghe miêu tả khủng khiếp này,

Là vì ở trong đại địa ngục, 

Chúng sinh phải trải qua cảm thọ, 

Khổ đau tuyệt vọng không ngừng nghỉ.


2. Việc gì một người đã làm ra, 

Mà việc làm đó là nghiệp thiện,

Thì kết quả chắc chắn hạnh phúc.

Còn việc gì một người làm ra,

Mà việc làm đó nghiệp bất thiện,

Thì kết quả chỉ có khổ đau.


3. Sự chết vốn dĩ là đau khổ, 

Đối với những ai đã sinh ra.

Sầu bi, khổ não, và trói buộc,

Bức bách, khó chịu cũng khổ đau.

Đối với những kẻ phàm ngu si, 

Khổ đau họ vốn là thường hằng.

Bởi kẻ ấy không thể biết được, 

Nhân duyên thật sự của hạnh phúc.


4. Ai thường nhớ nghĩ Phật Tối Thắng,

Nhớ Tối Thượng Toàn Giác của Phật,

Người ấy sẽ có được hạnh phúc, 

Giống như một bậc đủ trí tuệ.

Những ai hoan hỷ xe Đại thừa,

Thì người đó không rơi ác đạo.


5. Cũng như vậy, này Nhất Thiết Dũng,

Mọi hành vi đều được thúc đẩy, 

Bởi các việc làm trong quá khứ.

Dù cho một việc làm được làm,

Dù là rất nhỏ, nhưng quả báo, 

Phải thọ nhận là vô cùng tận.


6. Giống như, khi gieo hạt giống nhỏ, 

Người ta có thể thu quả lớn.

Cũng vậy, trong ruộng phước cõi Phật, 

Đây chính là ruộng tốt tối thượng, 

Nếu gieo một hạt giống vào đó, 

Thì sẽ gặt được quả vĩ đại.


7. Các bậc trí tuệ luôn an lạc, 

Vì họ an trú vào hoan hỷ, 

Trong giáo pháp của Bậc Chiến Thắng.

Họ xa lìa tất cả điều ác, 

Và làm tất cả các điều lành.


8. Những ai trong giáo pháp của Ta,  

Chỉ cần bố thí một vật nhỏ,

Dù vật đó chỉ bằng sợi lông,

Thì trong suốt tám mươi ngàn kiếp, 

Họ sẽ trở thành người đại phước, 

Đồng thời sở hữu tài sản lớn.


9. Dù cho họ sinh ra ở đâu, 

Thì nơi ấy họ luôn nhớ nghĩ, 

Đến việc bố thí và cúng dường.

Chính vì vậy, cúng dường chư Phật, 

Thật rất sâu, quả báo rất lớn.


44. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, liền thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, trong giáo pháp của đức Thế Tôn, pháp nên được hiểu biết bằng cách nào?


Và thưa đức Thế Tôn, khi lắng nghe bài giảng pháp về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, thì việc tiếp nhận các căn lành sẽ thành tựu như thế nào?


Đức Thế Tôn dạy rằng:


Này Nhất Thiết Dũng, nếu có người cúng dường 120 triệu Hằng Hà Sa các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, với tất cả các vật dụng tối thắng, nhờ đó người ấy tích lũy được một khối lượng công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu là rất lớn, từ đó người ấy được rất an lạc, và nếu người ấy lắng nghe bài giảng pháp về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, thì nên biết, khối lượng công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu được tích luỹ của người đó cũng tương đương với khối lượng công đức của việc cúng dường 120 triệu Hằng Hà Sa các đức Như Lai.


45. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, làm thế nào để thành tựu viên mãn các căn lành?


Khi điều ấy được nói ra, đức Thế Tôn liền bảo Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát rằng:


Này Nhất Thiết Dũng, bất cứ điều gì là căn lành, thì điều đó phải được biết là giống với Như Lai.


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, điều gì là căn lành phải được biết là giống với Như Lai?


Đức Thế Tôn dạy rằng:


Này Nhất Thiết Dũng, người giảng chánh pháp phải được biết là giống với Như Lai.


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, ai là người giảng chánh pháp?


Đức Thế Tôn dạy rằng:


Người nào có thể tuyên thuyết kinh dạy về cách Tích Luỹ Chánh Pháp, thì người ấy chính là người giảng chánh pháp.


46. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, những ai lắng nghe bài giảng pháp về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, thì họ sẽ tích lũy một khối lượng công đức to lớn như vậy. Huống chi, những người có thể chép lại, hoặc tự mình chép, hoặc đọc tụng kinh này, thưa đức Thế Tôn, họ sẽ tích lũy được bao nhiêu khối lượng công đức?


Đức Thế Tôn dạy rằng:


Hãy lắng nghe, này Nhất Thiết Dũng. Lấy một ví dụ, ở bốn phương, mỗi phương đều có 120 triệu Hằng Hà Sa các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, trong suốt 120 triệu Hằng Hà Sa số kiếp, các Ngài an trụ và thuyết pháp, chỉ để tán thán và khen ngợi khối lượng công đức của bài giảng pháp về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, thì ngay cả khi nói về công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu của người chép lại kinh này, cũng không thể đạt đến được tận cùng; cũng không thể nói hết được khối lượng công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu của người dù bằng cách đọc tụng kinh này.


Ngay cả với 48 Hằng Hà Sa các đức Phật Thế Tôn cũng không thể diễn tả hết được khối lượng công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu của việc sao chép kinh này. Huống chi là những người có thể đọc tụng, tư duy quan sát, hoặc trở thành người nhập thiền định vào pháp ấy!


47. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, những người đọc tụng kinh này sẽ tích lũy được bao nhiêu khối lượng công đức?


Lúc bấy giờ, ngay trong khoảnh khắc ấy, đức Thế Tôn liền nói ra các bài kệ như sau:


10. Công đức sinh ra từ đọc tụng, 

Chỉ một bài kệ gồm bốn dòng,

Thì cũng ngang bằng với công đức, 

Được tích luỹ khi cúng dường đến, 

Tám trăm bốn mươi triệu Hằng Sa,

Là số lượng các đức Như Lai.


11. Ngay cả nếu, các đức Phật ấy, 

Có cố gắng mô tả công đức, 

Được tích luỹ từ việc tuyên đọc,

Chỉ một phần nhỏ của kinh này,

Cho đến khi lời Phật thọ ký, 

Được truyền dạy đủ cho người đó.


12. Dù có tám trăm triệu đức Phật, 

Hiện diện trong suốt cả một kiếp,

Và dù tất cả Phật mười phương, 

Cùng nhau diễn nói các công đức, 

Của cỗ xe Đại thừa Toàn Giác,

Cũng không thể nào diễn tả được.


13. Tích Luỹ Chánh Pháp được công đức, 

Hoàn toàn không thể bị diệt mất.

Bởi vì những lần tuyên thuyết pháp, 

Từ chư Phật vô cùng hiếm có, 

Và không thể nào tính đếm được.


48. Vào thời điểm ấy, có 84.000 tỷ thiên tử, hướng đến đức Như Lai và hướng đến lời thuyết giảng từ bài giảng pháp về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, các vị ấy chắp tay cung kính và thưa với đức Thế Tôn rằng:


Lành thay! Lành thay!, thưa đức Thế Tôn, đức Thế Tôn đã thiết lập kho tàng Chánh Pháp như thế này tại cõi Diêm-phù-đề.


49. Lúc bấy giờ, có 18.000 người thuộc phái ngoại đạo loã thể ni-gran-thā, là đệ tử của đạo sĩ Ni-Kiền-Tử Nā-tha-put-ta, nghe đức Thế Tôn đang tổ chức pháp hội giảng về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp tại núi Linh Thứu, họ hướng về pháp hội tại thành Vương Xá, để thách đố pháp với đức Thế Tôn.


Sau khi đến gần, họ cao giọng với đức Thế Tôn rằng:


“Này Sa-môn Gau-ta-ma! Ông là người chiến thắng!”


Đức Thế Tôn nói với họ rằng:


“Như Lai luôn luôn là người chiến thắng, này các đạo sĩ ni-gran-tha. Này các đạo sĩ, các ông cho rằng mình chiến thắng là bằng cách nào?”


Họ trả lời rằng:


“Chúng tôi là những người đã chiến thắng. Chúng tôi cầu chúc cho ông chiến thắng. Chúng tôi mong ông thật sự là người chiến thắng, này Sa-môn Gau-ta-ma!”


Đức Thế Tôn nói với họ rằng:


“Ta không thấy sự chiến thắng nào nơi các ông.”


Đức Thế Tôn lại nói tiếp:


14. Các ông đang đứng chỗ sai lầm,

Thì làm sao đạt được chiến thắng?

Này các đạo sĩ ni-gran-thā, 

Hãy lắng nghe, và Ta sẽ nói,

Những điều lợi ích cho các ông.


15. Đối với người trí tuệ non nớt, 

Thì không có hạnh phúc an lạc,

Vậy làm sao các ông có thể, 

Thật sự đạt được chiến thắng chăng?

Ta sẽ chỉ bày đường rất sâu,

Bằng con mắt Toàn Giác Như Lai.


50. Lúc bấy giờ, các đạo sĩ ni-gran-thā ấy, ở ngay trước mặt đức Thế Tôn, sau khi nghe bài kệ đức Thế Tôn nói, họ cho rằng đức Thế Tôn xem thường họ, phỉ báng giáo phái của họ, nói họ là những người có trí tuệ non nớt, và đang tu hành sai, nên đã sinh khởi tâm tức giận, có thái độ thù địch và bất tín với đức Thế Tôn.


Vào đúng thời điểm ấy, Thiên Đế Sak-ra, vua của chư Thiên, đang hiện diện và an toạ ở giữa hội chúng ấy, Ngài thấy các đạo sĩ ngoại đạo ni-gran-thā ấy, đang tức giận, thù địch và dùng những lời lẽ thô bỉ để nhục mạ trước mặt đức Thế Tôn, liền giáng sấm sét xuống bằng chùy kim cương vào giữa đám đông các đạo sĩ ấy.


51. Lúc bấy giờ, 18.000 đạo sĩ ngoại đạo ni-gran-thā, bị kinh hoàng, bị thương tích do vừa bị sét đánh, họ té xỉu, run rẩy, sợ hãi, đau khổ tột cùng, như vừa chết đi sống lại, mất phương hướng và sầu não thê lương. Họ khóc nấc trong cổ họng với con mắt đẫm lệ, và than khóc thảm thiết.


Lúc ấy, đức Như Lai liền khiến thân mình và toàn thể hội chúng đều ẩn mất trước mắt họ. Bấy giờ, các đạo sĩ ngoại đạo ni-gran-thā, với gương mặt đầy nước mắt, vừa khóc than, vừa đau đớn, vừa sợ tiếp tục bị trời đánh, vừa sợ chết, vừa không còn thấy đức Như Lai và toàn thể hội chúng ở đâu nữa, họ thấy mình đứng giữa cánh đồng mênh mông không một bóng người, mây trên trời vần vũ chuẩn bị giáng sấm sét, nên liền cất lên bài kệ ai oán:


16. Ở đây không ai cứu được ta;

Không có mẹ, cũng không có cha.

Chúng ta chỉ thấy cánh đồng hoang,

Các căn nhà hoàn toàn trống rỗng, 

Không nơi nào để ta trú thân.


17. Không có nước, cũng không có cây, 

Cũng không có loài chim bay lượn.

Ở nơi đây, hoàn toàn trống rỗng, 

Chúng ta không thấy một bóng người;

Chúng ta hôm nay bị bỏ rơi, 

Chúng ta chỉ còn cảm thọ khổ.


18. Chúng ta đang cảm thọ khủng khiếp,

Một trạng thái sợ hãi cùng cực,

Vì không còn thấy đức Như Lai,

Và cả hội chúng ở đâu nữa.

Ai bây giờ làm chỗ nương tựa, 

Là vị cứu hộ cho chúng ta,

Khỏi nỗi kinh hoàng cực điểm này?


52. Vào thời điểm ấy, 18.000 đạo sĩ ni-gran-thā đứng dậy từ chỗ ngồi, họ quỳ cả hai đầu gối chạm đất, và cất tiếng gào khóc, phát ra âm thanh cầu cứu lớn:


19. Đức Như Lai, đầy lòng từ bi, 

Bậc Chánh Đẳng Giác, Bậc Tối Thắng,

Bậc Tối Thượng trong loài hai chân.

Xin Ngài hãy làm điều lợi ích, 

Cho chúng con, xin hãy cứu độ, 

Khỏi cõi đời đáng thương khốn khổ.


53. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, sau khi nghe được lời cầu cứu của họ, Ngài liền hiện thân và toàn thể hội chúng trước mắt 18.000 đạo sĩ ni-gran-thā ấy. Khi thấy được đức Thế Tôn và toàn thể hội chúng hoá hiện trở lại, các đạo sĩ ấy lòng rất vui mừng, như người giữa đồng hoang tìm được chỗ trú thân, như người sắp chết chìm gặp được phao cứu hộ, lòng họ lạ lùng và hoàn toàn tôn trọng đức Thế Tôn.


Khi ấy, đức Thế Tôn mỉm cười, và sau khi mỉm cười, liền gọi Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, và nói rằng:


Này Nhất Thiết Dũng, ông hãy đi và tuyên thuyết Chánh Pháp cho các đạo sĩ ni-gran-thā ấy.


Khi được nói như vậy, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát liền thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, chẳng phải các ngọn núi nhỏ cũng đều cúi đầu đảnh lễ trước đỉnh cao nhất của ngọn su-mê-ru hay sao? Khi Như Lai còn hiện diện ở đây, thì làm sao con có thể tuyên thuyết Chánh Pháp?


Đức Thế Tôn nói rằng:


Thôi đủ rồi, này thiện nam tử, phương tiện thiện xảo của các đức Như Lai là rất nhiều.


Ông hãy đi, này Nhất Thiết Dũng, hãy quán sát các thế giới ở mười phương, xem thử có gặp được đức Như Lai nào nữa không? Hoặc là ông thấy có tòa ngồi nào của đức Như Lai đã được thiết lập ở đâu chăng?


Chính ta, này Nhất Thiết Dũng, sẽ tự mình tuyên thuyết Chánh Pháp cho các đạo sĩ ngoại đạo ni-gran-thā ấy.


54. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Hiền Thiện Thế Tôn, con sẽ đi bằng thần lực của ai? Bằng thần lực của bản thân con? Hay nhờ thần lực của Như Lai?


Đức Thế Tôn nói rằng:


Ông hãy đi, này Nhất Thiết Dũng, bằng năng lực thần thông và sức nhiếp trì của chính mình. Và rồi, này Nhất Thiết Dũng, ông hãy trở lại đây bằng thần lực của Như Lai.


Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, liền đứng dậy từ chỗ ngồi, nhiễu quanh đức Thế Tôn ba vòng bên phải, rồi ngay tại chỗ đó biến mất.


55. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bắt đầu thuyết chánh pháp cho các đạo sĩ ngoại đạo như sau:


Sự sinh ra, này các hiền giả, là khổ đau. Chính sự sinh ra là bản chất của khổ đau.


Với một người đã sinh, sẽ có vô số nỗi sợ hãi liền phát sinh. Từ sự sinh ra, phát sinh nỗi sợ bệnh tật; từ bệnh tật, phát sinh nỗi sợ già nua. Với người đã già, phát sinh nỗi sợ chết.


Các đạo sĩ ngoại đạo liền hỏi:


Thưa đức Thế Tôn, nỗi sợ nào là của người đã sinh?


56. Đức Thế Tôn dạy rằng:


Cái này đã sinh, thì cái kia nối tiếp nhau cũng sinh, nên gọi là sinh.


Với người đã sinh ra, thì rất nhiều nỗi sợ hãi nối tiếp nhau phát sinh. Sợ vua sinh khởi, sợ trộm cướp cũng sinh khởi. Sợ lửa, sợ độc hại cũng đều sinh khởi. Sợ nước, sợ gió cũng sinh khởi. Sợ dòng nước xoáy cũng sinh khởi. Sợ hãi từ những nghiệp do chính mình đã làm cũng sinh khởi.


Như vậy, đức Thế Tôn đã thuyết giảng pháp về nguồn gốc của sự sinh bằng nhiều phương diện.


57. Vào đúng thời điểm ấy, những đạo sĩ ngoại đạo ni-gran-thā, sau khi lắng nghe những lời thuyết giảng từ đức Thế Tôn, lòng họ trở nên sợ hãi cực độ. Và họ thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, chúng con không còn đủ sức để tiếp tục trải nghiệm nỗi khổ của sự sinh nữa.


58. Ngay lúc ấy, trong lúc đức Thế Tôn đang thuyết giảng bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, thì 18.000 đạo sĩ ngoại đạo ni-gran-thā đã thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Từ nơi tự thân của các vị ấy, biến đổi thành 18.000 vị Bồ Tát an trụ tầng địa thứ mười.


Tất cả các vị ấy hoá hiện nhiều loại biến hóa thần thông, làm cho thân mình xuất hiện theo nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ như có người hiện thành thân ngựa, thân voi, thân sư tử, thân hổ, thân chim thần Ga-ru-đa, thân núi su-mê-ru, thân thần bò nan-đi-ka, hoặc một số thì hiện ra thành hình cây cối.


Sau khi hoá hiện xong, tất cả các vị ấy đều ngồi kiết già trên tòa sen. 9.000 vị Bồ Tát ngồi ở phía bên phải của đức Thế Tôn. 9.000 vị Bồ Tát nữa ngồi ở phía bên trái của đức Thế Tôn. Còn đức Như Lai, thì, luôn luôn an trú trong thiền định, được thấy là đang thuyết giảng pháp cho các chúng sinh bằng phương tiện thiện xảo.


59. Cho đến ngày thứ bảy, đức Như Lai liền duỗi bàn tay ra, và đức Thế Tôn biết rằng Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, đang từ thế giới tên là Pad-mot-ta-rā - Liên Hoa Tối Thượng, hiện đang trở về cõi này.


Khi Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát đi, trong vòng bảy ngày đêm, nhờ năng lực thần thông và sự nhiếp trì của bản thân, nên đã đến được thế giới Liên Hoa Tối Thượng. Và khi đức Thế Tôn đưa cánh tay ra xa hơn, thì ngay khi ấy, nhờ thần lực của Như Lai, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát liền hiện ra đứng trước mặt đức Thế Tôn.


Ngài nhiễu quanh đức Thế Tôn bảy vòng theo chiều bên phải, rồi với tâm hoan hỷ và thanh tịnh, liền ngồi gần trước đức Thế Tôn. Ngài chắp tay cung kính hướng về phía đức Thế Tôn, và thưa với đức Thế Tôn rằng:


60. Thưa đức Thế Tôn, con đã đi khắp mười phương trong tất cả các thế giới. Con đã thấy, thưa đức Thế Tôn, 990 tỷ thế giới. Con cũng đã thấy 900 tỷ cõi Phật, thưa đức Thế Tôn. Bằng thần lực thứ nhất, rồi bằng thần lực thứ hai, con đã gặp 1000 tỷ đức Phật Thế Tôn.


61. Vào ngày đêm thứ bảy, con đã đến thế giới Liên Hoa Tối Thượng. 


Trước đó, trong một khoảng không gian, con đã thấy 10 tỷ cõi Phật thuộc về đức Phật Ak-ṣo-bhya - Bất Động Như Lai. Sau đó, con thấy được thần lực của các đức Phật Thế Tôn nơi các cõi ấy. 


Trong 920 triệu tỷ cõi Phật, các đức Như Lai đang thuyết pháp.


Trong 80.000 tỷ cõi Phật, vào chính ngày hôm đó, có 80.000 tỷ các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện trong thế gian. Con đã lễ bái tất cả các đức Như Lai ấy, rồi lại tiếp tục lên đường.


62. Cũng ngay trong ngày hôm đó, thưa đức Thế Tôn, sau khi đã vượt qua 390 tỷ cõi Phật, thì con thấy có 390 tỷ Bồ Tát đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thành đức Như Lai. Con đã lễ bái, thưa đức Thế Tôn, tất cả các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác ấy. Sau khi con im lặng giữ mật hạnh nhiễu quanh các đức Như Lai ấy ba vòng, con liền lên đường bằng cách biến mất nhờ thần thông.


63. Thưa đức Thế Tôn, trong 600 triệu cõi Phật, con đã gặp các đức Phật Thế Tôn. Con đã lễ bái các đức Phật Thế Tôn ấy trong những cõi Phật đó, thưa đức Thế Tôn, và từ nơi ấy, con lại tiếp tục lên đường.


64. Thưa đức Thế Tôn, ở nhiều nơi khác, trong 1 tỷ cõi Phật, con thấy các đức Như Lai ở đó đang nhập Niết-bàn. Con đã lễ bái các đức Như Lai ấy, và từ đó con lại tiếp tục lên đường.


65. Thưa đức Thế Tôn, con cũng thấy 950 triệu cõi Phật khác, Chánh Pháp đang dần biến mất. Tâm con trở nên nặng nề, mỏi mệt, thưa đức Thế Tôn, và con đã rơi lệ. Con cũng thấy rất nhiều chúng sinh đang than khóc, gồm có chư thiên, rồng, dạ xoa, la-sát, và các loài biến hóa tự tại, tất cả đều bị nhấn chìm trong sầu não lớn như gai nhọn đâm họ thương tích.


Con còn thấy một cõi Phật khác đã hoàn toàn bị thiêu hủy, cùng với biển cả, núi su-mê-ru, và cả khu vực địa cầu. Con cũng đã lễ bái cõi ấy, thưa đức Thế Tôn, rồi rời đi với tâm trạng không còn hy vọng gì ở cõi đó nữa.


66. Con đã tiếp tục lên đường, cho đến khi con đến được thế giới Liên Hoa Tối Thượng, thưa đức Thế Tôn. Tại thế giới Liên Hoa Tối Thượng ấy, thưa đức Thế Tôn, con thấy có tổng cộng 5.000 tỷ tòa ngồi đã được thiết lập.


Ở phương Nam, con thấy có 1000 tỷ tòa ngồi đã được thiết lập. Ở phương Bắc, con cũng thấy có 1000 tỷ tòa ngồi đã được thiết lập. Ở phương Đông, con cũng thấy có 1000 tỷ toà ngồi đã được thiết lập. Ở phương Tây, con cũng thấy 1000 tỷ toà ngồi đã được thiết lập. Và ở phương trên, con cũng thấy có 1000 tỷ toà ngồi đã được thiết lập.


67. Thưa đức Thế Tôn, tất cả các tòa ngồi ấy đều được làm bằng bảy báu. Trên tất cả các tòa ngồi ấy, con đều thấy có các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đều đang an toạ và thuyết pháp.


Lúc ấy, thưa đức Thế Tôn, con vô cùng kinh ngạc, lễ bái các đức Như Lai ấy, rồi cung kính thưa hỏi rằng:


Thưa các đức Thế Tôn, tên gọi của thế giới này là gì?


Các đức Như Lai ấy trả lời con rằng:


Này thiện nam tử, thế giới này có tên là Liên Hoa Tối Thượng.


68. Sau đó, thưa đức Thế Tôn, con nhiễu quanh các đức Như Lai ấy, rồi lại cung kính thưa hỏi rằng:


Thưa các đức Thế Tôn, ở trong cõi Phật này, vị Như Lai có danh hiệu là gì?


Các đức Như Lai ấy trả lời:


Này thiện nam tử, vị Như Lai ở đây có hiệu là Pad-ma-gar-bha - Liên Hoa Tạng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác. Chính đức Như Lai ấy, đang thực hành các Phật sự trong cõi Phật này.


Sau đó, con thưa với các đức Như Lai ấy rằng:


Con thấy có hàng ngàn tỷ các đức Như Lai ở đây, nhưng con không biết được, trong số đó, vị nào là đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác có tên là Liên Hoa Tạng?


Các đức Như Lai ấy nói với con rằng:


Này thiện nam tử, chúng ta sẽ chỉ cho ông thấy đức Như Lai nào trong số các Như Lai ở đây, vị nào là đức Liên Hoa Tạng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


69. Ngay trong khoảnh khắc ấy, tất cả thân tướng của các đức Như Lai liền biến mất. Và thay vào đó, chỉ còn thấy các hình tướng của các Bồ Tát. Con chỉ thấy duy nhất một đức Như Lai ở chính giữa các vị Bồ Tát ấy. Con liền cúi đầu đảnh lễ dưới chân của đức Như Lai ấy, và đứng trước mặt Ngài.


Khi ấy, một tòa ngồi liền hiện ra. Và đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai nói với con rằng:


Này thiện nam tử, hãy ngồi xuống trên tòa này.


Lúc bấy giờ, con an toạ trên tòa ngồi ấy. Ngay lúc ấy, đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai làm hiện ra vô số tòa ngồi khác. Và con không thấy có một ai ngồi trên các tòa ấy.


70. Khi ấy, con liền hỏi đức Như Lai ấy rằng:


“Thưa đức Thế Tôn, con không thấy có một chúng sinh nào ngồi trên những tòa này.”


Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai liền nói với con như sau:


Này thiện nam tử, những chúng sinh không gieo trồng căn lành thì không thể ngồi trên những tòa này.


Khi ấy, con thưa với đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai như sau:


Thưa đức Thế Tôn, các chúng sinh, sau khi đã gieo trồng căn lành như thế nào, mới có thể an tọa trên các tòa này?


Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai liền dạy con như sau:


Này thiện nam tử, hãy lắng nghe. 


Những chúng sinh nào lắng nghe bài giảng pháp về kinh dạy về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, thì nhờ vào căn lành ấy, họ có thể được ngồi trên các tòa này. Huống chi những người biên chép hoặc đọc tụng kinh này.


Chính ông, này Nhất Thiết Dũng, đã lắng nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, nên ông mới ngồi được trên tòa này. Nếu không như thế, thì ai có thể cho phép ông được bước vào nội địa của cõi Phật này?


71. Khi đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai nói như vậy, con liền thưa với đức Thế Tôn ấy rằng:


Thưa đức Thế Tôn, một chúng sinh sẽ tích lũy được bao nhiêu khối lượng công đức, nếu người đó lắng nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này?


Lúc bấy giờ, đức Phật Liên Hoa Tạng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, ngay trong khoảnh khắc ấy, liền mỉm cười.


Khi thấy vậy, thưa đức Thế Tôn, con liền hỏi đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai về nguyên nhân của nụ cười ấy như sau:


Thưa đức Thế Tôn, nhân là gì? Và duyên là gì khiến cho đức Như Lai mỉm cười?


72. Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai nói rằng:


Này Nhất Thiết Dũng, ông là một vị chúng sanh tỉnh thức, là một vị Đại Bồ Tát, đã chứng được thần lực lớn, mới có thể hỏi như vậy. Này thiện nam tử, hãy lắng nghe! 


Lấy một ví dụ, này thiện nam tử, có một vị vua là Chuyển Luân Thánh Vương, làm chủ cả bốn châu thiên hạ. Vị ấy gieo giống hạt mè trên cả bốn châu địa cầu.


Này Nhất Thiết Dũng, ông nghĩ sao? Có phải là rất nhiều hạt giống của vị ấy sẽ nảy mầm, lớn lên và thu hoạch được vụ mè bội thu chăng?


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Rất nhiều, thưa đức Thế Tôn, rất nhiều, thưa đức Thiện Thệ.


73. Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai nói rằng:


Sau đó, này Nhất Thiết Dũng, giả sử có một chúng sinh nào đó, người ấy gom hết tất cả những hạt mè sau khi thu hoạch thành một đống.


Một người khác, từ đống mè ấy, lấy ra từng hạt một, và đặt nó sang phía bên kia. Này Nhất Thiết Dũng, ông nghĩ sao? Chúng sinh ấy có thể đếm hết được những hạt mè ấy, hoặc có thể mô tả số lượng được chăng?


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Không thể được, thưa đức Thế Tôn, không thể được, thưa đức Thiện Thệ. Không thể nào đếm hết được các hạt mè ấy.


74. Đức Thế Tôn nói rằng:


Cũng như vậy, này Nhất Thiết Dũng, khối lượng công đức của bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, không thể nào đem ra ví dụ được, ngoại trừ chỉ đức Như Lai mới có thể biết được khối lượng công đức đó.


Lấy một ví dụ nữa, này Nhất Thiết Dũng, giả sử tất cả số lượng hạt mè sau khi thu hoạch ấy, mỗi một hạt mè đều hoá thành một đức Như Lai, có bao nhiêu hạt mè thì có bấy nhiêu đức Như Lai. Tất cả các đức Như Lai ấy cùng nhau tán thán công đức căn lành phát sinh từ việc lắng nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, thì ngay cả bằng ví dụ, công đức ấy cũng không thể nào ví dụ tận cùng được. Huống chi là người sao chép, hoặc đọc tụng kinh này.


75. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, công đức của người sao chép bài giảng pháp này là bao nhiêu?


Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai dạy rằng:


Hãy lắng nghe, này thiện nam tử. Lấy một ví dụ, này thiện nam tử, có một người đi khắp 3000 đại thiên thế giới, người ấy cắt từng đoạn nhỏ bằng một lóng tay tất cả cây cỏ và củi gỗ.


76. Này Nhất Thiết Dũng, hãy lắng nghe ví dụ thứ hai. Trong khắp 3000 đại thiên thế giới, có bao nhiêu tảng đá, vực sâu, bụi đất, hoặc hạt hạ lượng tử, tất cả những thứ ấy đều biến thành các vị vua Chuyển Luân Thánh Vương, làm chủ bốn châu thiên hạ, đầy đủ bảy báu.


Này Nhất Thiết Dũng, ông nghĩ sao? Giả sử một người có được khối lượng công đức của tất cả những vị vua Chuyển Luân Thánh Vương ấy, thì khối lượng công đức ấy có thể nào so sánh được chăng?


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, điều đó không thể làm được, ngoại trừ chỉ đức Như Lai mới có thể biết được.


77. Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai dạy rằng:


Cũng như vậy, này Nhất Thiết Dũng, không thể nào đem so sánh được khối lượng công đức của việc sao chép bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này. Dù có bao nhiêu công đức của những vị vua Chuyển Luân Thánh Vương, thì công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu sinh ra từ việc biên chép bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này còn nhiều hơn gấp vô số lần.


Bởi vì bất kỳ ai, nếu từ bài giảng pháp này, chỉ cần viết xuống và gìn giữ dù chỉ một chữ, thì công đức của người ấy, ta nói, còn lớn hơn rất nhiều, không thể nào so sánh được với tổng khối lượng công đức của tất cả các vị vua Chuyển Luân Thánh Vương kia.


78. Cũng như vậy, này Nhất Thiết Dũng, công đức của một vị chúng sanh tỉnh thức, một vị Đại Bồ Tát, người thọ trì Chánh Pháp Đại thừa, và an trụ nơi thực hành pháp, thì ngay cả công đức của tất cả các vị vua Chuyển Luân Thánh Vương đó cũng không thể nào bằng được một phần nhỏ của công đức ấy.


Cũng như vậy, công đức từ việc sao chép bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, không thể đem ra làm ví dụ được.


Này Nhất Thiết Dũng, Kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này chính là kho tàng công đức. Kinh này dập tắt tất cả phiền não. Nó làm bừng cháy ngọn đuốc của Chánh Pháp đối với tất cả các pháp. Kinh này đánh bại tất cả ma quân, những kẻ ác độc. Kinh này làm rực sáng tất cả các đạo tràng của Bồ Tát. Kinh này khai mở mọi dòng lưu xuất của tất cả các pháp.


79. Khi lời này được nói ra, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát thưa với đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai rằng:


Thưa đức Thế Tôn, đời sống phạm hạnh ở đây, quả thật, là điều hành trì cực kỳ khó khăn. Vậy nguyên nhân nào khiến cho con đường hành trì của Như Lai là điều khó gặp?


Cũng như vậy, đời sống phạm hạnh thật là khó có. Khi ai đó thực hành đời sống phạm hạnh, thì người ấy sẽ thấy được Như Lai đối diện trước mặt, ngày và đêm sẽ được thấy Như Lai. Khi thấy được Như Lai, thì người ấy cũng sẽ thấy cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh. Khi thấy cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh, thì người ấy thấy tất cả các kho tàng của Chánh Pháp. Khi người ấy thấy tất cả kho tàng của Chánh Pháp, thì lúc lâm chung, nơi người ấy sẽ không sinh khởi sợ hãi. Người ấy sẽ không bao giờ còn tái sinh vào bào thai của người mẹ. Không bao giờ có sự sầu khổ nào phát sinh nơi người ấy. Người ấy cũng sẽ không bị trói buộc bởi sợi dây của khát ái, và ham thích dục lạc.


80. Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai liền nói với Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát như sau:


Này Nhất Thiết Dũng, ông nghĩ sao? Sự xuất hiện của đức Như Lai chẳng phải là điều khó gặp hay sao?


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Khó gặp thay, thưa đức Thế Tôn! Khó gặp thay, thưa đức Thiện Thệ!


Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai nói rằng:


Đúng vậy, này Nhất Thiết Dũng, bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này là điều vô cùng khó gặp.


Với những ai, này Nhất Thiết Dũng, mà bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này được truyền đến tai họ, người ấy trong 80 kiếp, ở mỗi đời sinh ra, đều sẽ là người nhớ được các đời sống quá khứ của mình. Trong 60.000 kiếp, người ấy sẽ đạt được ngôi vị Chuyển Luân Thánh Vương. Trong 8.000 kiếp, người ấy sẽ làm Thiên chủ Sak-ra. Trong 25.000 kiếp, người ấy sẽ sinh về và cùng sống với các chư thiên thuộc cõi Trời Tịnh Cư śud-đā-vā-sa. Trong 38.000 kiếp, người ấy sẽ là Đại Phạm Thiên Vương.


81. Trong 99.000 kiếp, người ấy sẽ không rơi vào cảnh đọa lạc. Trong 100.000 kiếp, người ấy sẽ không tái sinh vào cõi ngạ quỷ. Trong 28.000 kiếp, người ấy sẽ không tái sinh làm loài súc sinh. Trong 13.000 kiếp, người ấy sẽ không sinh vào loài A-tu-la. Người ấy sẽ không chết bởi gươm đao. Người ấy cũng không bị chết do chất độc, không bị thiêu bởi lửa, và cũng sẽ không bị đe dọa bởi hành động hãm hại của người khác.


82. Trong 25.000 kiếp, người ấy sẽ không trở thành người yếu kém tuệ giác Bát Nhã. Trong 7.000 kiếp, người ấy sẽ sống bằng tuệ giác Bát Nhã. Trong 9.000 kiếp, người ấy sẽ là người khả kính, khiến người khác sinh tâm hoan hỷ. Người ấy sẽ có thân tướng đoan nghiêm, như sự thành tựu thân tướng của đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác. Trong 15.000 kiếp, người ấy sẽ không tái sinh vào thân nữ. Trong 16.000 kiếp, bệnh tật sẽ không xâm nhập vào thân thể của người ấy. Trong 35.000 kiếp, người ấy sẽ có thiên nhãn.


83. Trong 19.000 kiếp, người ấy sẽ không sinh vào loài rồng. Trong 6.000 kiếp, người ấy sẽ không bị sân hận chi phối. Trong 7.000 kiếp, người ấy sẽ không tái sinh vào những gia đình nghèo khó. Trong 80.000 kiếp, người ấy sẽ được thọ hưởng hai châu thiên hạ. Ngay cả khi người ấy có sinh làm người nghèo, thì lúc ấy cũng sẽ được hưởng niềm hạnh phúc khi người ấy ngày càng trưởng thành. Trong 12.000 kiếp, người ấy sẽ không sinh vào loài bị mù, phải sống trong bóng tối. Trong 13.000 kiếp, người ấy sẽ không rơi vào các đường ác. Trong 11.000 kiếp, người ấy sẽ là người thuyết giảng về hạnh nhẫn nhục. 


Vào lúc lâm chung, khi thức cuối cùng đang chấm dứt, người ấy sẽ không có các tưởng sai lạc. Và người ấy sẽ không bị sân hận chi phối.


84. Người ấy sẽ thấy trước mặt, ở phương Đông, có mười hai Hằng Hà Sa các đức Phật Thế Tôn. Ở phương Nam, người ấy sẽ thấy trước mặt có 200 triệu đức Phật.


Ở phương Tây, người ấy sẽ thấy trước mặt có 25 Hằng Hà Sa các đức Phật Thế Tôn. Ở phương Bắc, người ấy sẽ thấy trước mặt có 20 Hằng Hà Sa các đức Phật Thế Tôn. Ở phương trên, người ấy sẽ thấy trước mặt có 900 tỷ các đức Phật Thế Tôn. Ở phương dưới, người ấy sẽ thấy trước mặt có 1 tỷ Hằng Hà Sa các đức Phật Thế Tôn.


85. Tất cả các đức Như Lai ấy liền an ủi vị thiện nam tử ấy như sau:


“Này thiện nam tử, chớ sợ! Vì ông, sau khi đã lắng nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, nên ông sẽ có vô lượng công đức ở đời sau phát sinh từ đây.”


Lúc bấy giờ, đức Phật Liên Hoa Tạng Như Lai hỏi Bồ Tát Nhất Thiết Dũng rằng:


Này thiện nam tử, ông có thấy hàng trăm tỷ tỷ tỷ tỷ Hằng Hà Sa các đức Như Lai đang hiện diện nơi đây chăng?


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, con thấy! Thưa đức Thiện Thệ, con thấy!


Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai nói rằng:


Này thiện nam tử, các đức Như Lai này đã đến gần ông để thị hiện thân.


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Con đã làm các việc lành nào để khiến cho vô số các đức Như Lai hiện đến đây?


86. Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai dạy rằng:


Này thiện nam tử, hãy lắng nghe.


Chính ông, sau khi đã được sinh làm người, và được nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, chính nhờ đó, ông đã tích lũy được khối công đức lớn như thế này.


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, nếu khối công đức của riêng con khi chỉ nghe một phần bài giảng pháp này đã lớn đến như vậy, thì còn gì để nói về người nào nghe được trọn vẹn toàn bộ bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này?


87. Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai dạy rằng:


Đủ rồi, này thiện nam tử, hãy lắng nghe!


Ta sẽ trình bày công đức phát sinh khi chỉ nghe một bài kệ có bốn câu của bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp.


Lấy một ví dụ, này thiện nam tử, có 13 Hằng Hà Sa các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Chánh Giác, thì khối lượng công đức từ việc phụng sự các vị ấy, vẫn ít hơn vô số lần khối lượng công đức được sinh ra khi nghe một bài kệ bốn câu của bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp.


Ai mà chỉ cần nghe một bài kệ bốn câu của bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, và ai phụng thờ 13 Hằng Hà Sa các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, thì người từ trong bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp mà nghe được dù chỉ một bài kệ bốn câu, người này sẽ sinh ra khối lượng công đức còn lớn hơn khối lượng công đức từ việc phụng sự 13 Hằng Hà Sa các đức Như Lai. Huống chi là người nào lắng nghe toàn bộ trọn vẹn bài giảng pháp này! Khối lượng công đức của người ấy không thể nào đem ra ví dụ được.


88. Này thiện nam tử, hãy lắng nghe! Ta sẽ lấy ví dụ về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, mức độ tích luỹ khối lượng công đức thông qua cúng dường các bậc Thánh, và khối lượng công đức đối với ai lắng nghe trọn vẹn toàn bộ, một cách chi tiết, bài giảng pháp về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp, và cách để những chúng sinh phàm phu, trí tuệ non nớt, ngu si, mờ tối, đang chịu các cảnh khổ đau, và những người đã tạo các ác nghiệp trong đời này, đang chìm sâu trong khổ đau, có thể tích luỹ chánh pháp để tự cứu lấy mình.


Lấy một ví dụ, nếu có ai gieo hạt mè khắp toàn thể 3000 đại thiên thế giới, tất cả hạt mè đó đều nảy mầm, lớn lên và thu hoạch được vụ mè bội thu. Mỗi hạt mè sau khi thu hoạch ấy được ví là một vị vua Chuyển Luân Thánh Vương.


Và nếu có một người là đại phú gia, giàu có vô cùng, đầy đủ phước báu, và người ấy bố thí vô số của cải cho tất cả những vị vua Chuyển Luân Thánh Vương ấy, tùy theo nguyện ước.


Này Nhất Thiết Dũng, ông nghĩ sao? Người ấy, nhờ nhân duyên ấy, có thể tích lũy được nhiều công đức hay không?


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Rất nhiều, thưa đức Thế Tôn! Rất nhiều, thưa đức Thiện Thệ!


Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai dạy rằng:


Này thiện nam tử, dù có bao nhiêu khối lượng công đức sinh ra từ việc bố thí cho các vị vua Chuyển Luân Thánh Vương, thì người nào bố thí cho một vị đã chứng quả Thánh đầu tiên là Nhập Lưu - Tu Đà Hoàn, người ấy sẽ sinh ra khối lượng công đức còn lớn hơn rất nhiều so với khối lượng công đức do bố thí cho tất cả các vị vua Chuyển Luân Thánh Vương ấy.


89. Nếu tất cả chúng sinh trong toàn cõi 3000 đại thiên thế giới đều là bậc Nhập Lưu Tu Đà Hoàn, và có người bố thí cho tất cả những vị Tu Đà Hoàn ấy, thì khối lượng công đức sinh ra từ việc bố thí tất cả các vị Tu Đà Hoàn vẫn nhỏ hơn khối lượng công đức sinh ra từ việc chỉ bố thí cho một vị đã chứng Thánh quả thứ hai Nhất Lai - Tư Đà Hàm.


Nếu tất cả chúng sinh trong 3000 đại thiên thế giới đều là bậc Nhất Lai Tư Đà Hàm, và có người bố thí cho tất cả những vị Tư Đà Hàm ấy, thì khối lượng công đức sinh ra từ việc bố thí tất cả các vị Tư Đà Hàm vẫn nhỏ hơn khối lượng công đức sinh ra từ việc chỉ bố thí cho một vị đã chứng Thánh quả thứ ba Bất Lai - A Na Hàm.


Nếu tất cả chúng sinh trong 3000 đại thiên thế giới đều là bậc Bất Lai A Na Hàm, và có người bố thí cho tất cả những vị A Na Hàm ấy, thì khối lượng công đức sinh ra từ việc bố thí tất cả các vị A Na Hàm vẫn nhỏ hơn khối lượng công đức sinh ra từ việc chỉ bố thí cho một vị đã chứng Thánh quả thứ tư Ứng Cúng - A La Hán.


Nếu tất cả chúng sinh trong 3000 đại thiên thế giới đều là A La Hán, và có người bố thí cho tất cả những vị A La Hán ấy, thì khối lượng công đức sinh ra từ việc bố thí tất cả các vị A La Hán vẫn nhỏ hơn khối lượng công đức sinh ra từ việc chỉ bố thí cho một vị Độc Giác Phật.


Nếu tất cả chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới đều là Độc Giác Phật, và có người bố thí cho tất cả những vị Độc Giác Phật ấy, thì khối lượng công đức sinh ra từ việc bố thí tất cả các vị Độc Giác Phật vẫn nhỏ hơn khối lượng công đức sinh ra từ việc chỉ bố thí cho một vị Bồ Tát.


Nếu tất cả chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới đều là Bồ Tát, và có người bố thí cho tất cả những vị Bồ Tát ấy, thì khối lượng công đức sinh ra từ việc bố thí tất cả các vị Bồ Tát vẫn nhỏ hơn khối lượng công đức của người chỉ cần làm hoan hỷ tâm của một đức Như Lai.


90. Nếu tất cả 3000 đại thiên thế giới đều đầy kín các đức Như Lai, và có người làm cho tâm của tất cả các đức Như Lai ấy đều hoan hỷ, thì khối lượng công đức sinh ra từ việc làm cho tâm của tất cả các đức Như Lai hoan hỷ vẫn nhỏ hơn khối lượng công đức của người biên chép bài giảng pháp về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp. Huống chi, này Nhất Thiết Dũng, người lắng nghe bài giảng pháp này, và sau khi nghe, có thể ghi nhớ, đọc tụng, thấu hiểu tường tận, và truyền dạy một cách rộng rãi cho người khác. Cũng như, này Nhất Thiết Dũng, người nào chỉ cần đảnh lễ và cung kính quy mạng của mình với bài giảng pháp về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này với tâm hoan hỷ, thì khối lượng công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu phát sinh nơi người ấy là vô lượng vô biên, không thể tính đếm, không thể dùng ví dụ để mô tả được.


91. Này Nhất Thiết Dũng, ông nghĩ sao? Liệu người phàm phu ngu si, trí tuệ non nớt có thể lắng nghe được kinh này chăng?


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, không thể được.


Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai dạy rằng:


Đối với những ai có nghe được bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp mà không khởi tâm hoan hỷ, thì này Nhất Thiết Dũng, ta sẽ lấy ví dụ để giải thích. Ông hãy lắng nghe.


Này Nhất Thiết Dũng, có trường hợp nào xảy ra nếu một người phàm phu ngu si, trí tuệ non nớt mà có thể phát minh ra công cụ dò tìm được đáy sâu trong biển lớn chăng?


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, điều đó không thể xảy ra.


92. Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai lại hỏi:


Này Nhất Thiết Dũng, có tồn tại chúng sinh nào có thể làm cạn đại dương chỉ bằng một bàn tay chăng?


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, không thể được. Thưa đức Thiện Thệ, không thể nào có chuyện đó.


Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai dạy:


Như trường hợp, này Nhất Thiết Dũng, không có một chúng sinh nào có thể làm cạn đại dương chỉ bằng một bàn tay, thì cũng vậy, này Nhất Thiết Dũng, những chúng sinh có căn cơ thấp kém, trí tuệ non nớt, mờ tối, ngu si, thì không thể nào nghe được bài giảng pháp này. 


Như trường hợp người phàm phu ngu si, trí tuệ non nớt, không thể nào phát minh ra công cụ dò tìm được đáy sâu trong biển lớn, cũng như vậy, người phàm phu ngu si, trí tuệ non nớt, mờ tối, dù có nghe được bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, họ cũng không khởi tâm hoan hỷ, không thể dò tìm được sự hạnh phúc và an lạc rất sâu trong biển lớn của Trí Toàn Giác.


Những người, này Nhất Thiết Dũng, chưa từng thấy 8 tỷ tỷ tỷ Hằng Hà Sa các đức Như Lai, thì những người ấy không thể nào biên chép được bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này.


Với những người chưa từng thấy 90 Hằng Hà Sa các đức Như Lai, thì người ấy không thể nào nghe hiểu được bài giảng pháp này.


93. Những ai chưa từng thấy 1000 tỷ đức Như Lai, thì khi nghe bài giảng pháp này, họ sẽ chối bỏ không tin, và không khởi tâm hoan hỷ.


Còn những người, này Nhất Thiết Dũng, đã từng thấy 1 tỷ Hằng Hà Sa các đức Như Lai, thì khi nghe bài giảng pháp này, họ sẽ khởi tâm hoan hỷ, và hiểu rõ được bản tánh chơn thật như nó đang là.


Người nào có lòng tin chân thật, thâm nhập được vào “bản chất chơn thật như nó đang là” mà bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này nói đến, thì người ấy sẽ không chối bỏ pháp này, và hoàn toàn sinh tâm hoan hỷ, hạnh phúc, an lạc và dễ chịu.


94. Này Nhất Thiết Dũng, ông hãy tiếp tục lắng nghe.


Bất kỳ ai, từ bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, chỉ sao chép một bài kệ bốn câu, hay dù chỉ một chữ, thì này Nhất Thiết Dũng, chúng sinh ấy, sau khi vượt qua 950 tỷ thế giới, thì cõi Phật của họ giống như thế giới Cực Lạc su-khā-va-tī. Và những chúng sinh ấy, này Nhất Thiết Dũng, sẽ có thọ mạng kéo dài 84.000 kiếp.


95. Này Nhất Thiết Dũng, hãy tiếp tục lắng nghe, ta sẽ nói về cách tích luỹ chánh pháp của những vị Bồ Tát, và những vị Đại Bồ Tát, nếu từ bài giảng pháp này, mà họ chỉ nghe một bài kệ bốn câu, và để họ hiểu cách hướng dẫn các chúng sanh trong ba đường ác tích luỹ chánh pháp.


Lấy một ví dụ, này Nhất Thiết Dũng, có một chúng sinh nào đó là người hung ác, táo bạo liều lĩnh, xa lìa Chánh Pháp, không màng đến đời sau, chuyên làm điều ác. Người ấy hoặc tự mình tạo, hoặc sai khiến người khác tạo, hoặc tán thán năm tội vô gián. Nếu như người ấy, từ bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, chỉ nghe một bài kệ bốn câu, thì tất cả những tội ác vô gián của người ấy sẽ hoàn toàn tiêu trừ.


Huống chi, nếu người ấy đã là một chúng sinh tỉnh thức, đã là một vị Đại Bồ Tát, từ bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, mà người ấy nghe được một bài kệ bốn câu, thì các ác nghiệp của người ấy trong quá khứ đều được hoàn toàn tiêu trừ. Người ấy sẽ dễ dàng thực hành duy thức, tăng tiến trên các tầng địa, thâm nhập vào cảnh giới rất sâu của Như Lai. Huống chi có thể nghe được toàn bộ, ghi nhớ, thọ trì, đọc tụng, nhập vào thiền định sâu đối với bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp. 


96. Này Nhất Thiết Dũng, hãy lắng nghe! Ta sẽ nói thêm nữa về công đức.


Lấy một ví dụ về cách Tích Luỹ Chánh Pháp, này Nhất Thiết Dũng, ta nhớ thuở xưa có một vị vua có thế lực lớn, dùng tà pháp để cai trị đất nước, phá hoại tháp Phật, và gây chia rẽ Tăng đoàn, làm cho Bồ Tát rơi khỏi thiền định sâu sa-mā-dhi, tạo chướng ngại cho các vị tu hành duy thức đạt được Trí Toàn Giác của Phật, sát hại, và đoạt mạng sống của cha mẹ.


Người ấy, sau khi mất toàn bộ vương quyền, phải chạy trốn ẩn nấp trong núi rừng. Sống trong cảnh lẩn trốn, nghèo khó, đầy dẫy khổ đau, một hôm, ông ấy trở nên hối hận, và khởi tâm ân hận, than khóc, với suy nghĩ rằng: “Ta đã mất tất cả, bị mất mát bởi thân này, đời này và đời sau của ta đã tiêu mất rồi.”


Từ đó, nơi người ấy khởi lên một sự khổ tâm lớn, cảm thọ nỗi đau đớn, và thống khổ cay đắng. Này Nhất Thiết Dũng, tất cả chúng sinh khác đều hoàn toàn xa lánh và khinh ghét người ấy. Người này như trụ đá bị cháy đen, bị tiêu diệt, pháp thế gian và xuất thế gian đều đã mất sạch nơi người ấy trong vô lượng kiếp.


97. Cũng như vậy, người ấy thuở xưa giống như một ngôi nhà đẹp đẽ, tự mình làm ác, tự mình đốt nhà chính mình, như cột đã bị thiêu rụi, căn nhà bị cháy đen, thì không còn gì đẹp đẽ nữa. Cũng như thế, người này trong đời này trở nên xấu xí, không có ánh sáng. Dù người ấy đi đến đâu, ở nơi đó, đều bị chúng sinh sỉ nhục, khinh thường và đánh đập. Dù người ấy có bị hành hạ bởi đói khát, người ấy cũng không xin được gì cả. Do đó, người ấy phải chịu đựng cảm thọ khổ đau.


98. Người ấy, do bị hành hạ bởi đói khát, lời nhục mạ, khinh thường, và bởi các đòn đánh, liền nhớ lại hành vi phá tháp Phật, chia rẽ Tăng Đoàn, phá hoại chánh pháp, sát hại cha mẹ, đủ cả năm tội vô gián. Trải qua một thời gian dài sống trong đau khổ, từ đó, người ấy khởi tâm nhàm chán đời sống này, và muốn thoát khỏi cảnh khổ đó.


Người ấy tự nghĩ: “Ta sẽ đi đâu? Ai sẽ là người cứu ta?”


99. Người ấy suy nghĩ như sau: “Ta sẽ đi, chui vào hang sâu trong núi rừng. Và ở nơi ấy, ta sẽ tự tử. Vì ở đây, không còn ai có thể cứu hộ cho ta.”


Và người ấy than thở rằng:


20. Tội ác do ta đã tạo ra, 

Như cây cột đá bị thiêu cháy, 

Chẳng còn gì đẹp đẽ đáng ưa.

Không còn làm đẹp cho đời này, 

Cũng không thể tỏa sáng đời sau.


21. Trong nhà xấu hổ chẳng tỏa sáng, 

Ra ngoài ta chẳng còn danh dự.

Khắp mọi nơi, ta kẻ ô nhục, 

Vì ta chính kẻ làm điều ác.


22. Vì tâm ta trước đây sai lầm, 

Nên ta đã tạo các lỗi ác, 

Vì thế ta sẽ đọa đường dữ.

Và ta sẽ khổ đau đời sau, 

Ở đời này ta sống vô ích? 

Than ôi, ta còn trong đường dữ!


23. Lúc ấy xuất hiện một vị thiên,

Là cha thuở xưa của người đó,

Đã từng là vua đúng chánh pháp,

Cai trị dân chúng thật an lạc.

Sau khi bị chính con mình giết,

Đã tái sinh trời Ba Mươi Ba.

Khi ấy vị thiên nghe tiếng khóc,

Tiếng khóc trong nghẹn ngào nước mắt, 

Người ấy òa lên khóc nức nở:

“Than ôi! Ta thật kẻ tuyệt vọng, 

Ta đang bước vào cửa đời sau, 

Chẳng còn hy vọng ngoài cõi ác.”


Vị thiên đã nói với người ấy:


24. Con đúng là kẻ rất si mê, 

Hãy đi đi, này hỡi con thân.

Chớ nghĩ như vậy thêm thế nữa, 

Hỡi con đang chìm trong khổ não.

Khóc than: “Ta không nơi nương tựa, 

Cũng chẳng ai có thể cứu ta,

Chỉ còn cảm thọ nỗi thống khổ.


25. Ta đã giết mẹ, và giết cha, 

Đã phạm đủ năm tội vô gián.

Ta sẽ lên đỉnh núi cao nhất, 

Và tại đó, ta sẽ nhảy xuống, 

Ta sẽ lìa bỏ thân mạng này.”


26. Đừng đi nữa, hỡi con mê muội,

Chớ đừng làm ác nghiệp nào nữa.

Con đã làm rất nhiều điều ác, 

Vì tâm con đã bị khuấy động.


27. Những ai tự sát, huỷ thân mình, 

Kẻ ấy sẽ đọa vào địa ngục, 

Họ phải chịu đau khổ vô cùng.

Từ đó họ bị ném xuống đất, 

Gào khóc thét than trong thống khổ.


28. Với nỗ lực tự giết thân mình,

Họ không thể thành một đức Phật, 

Cũng chẳng thể thành được gì cả.

Cũng không thể thành bậc Thanh Văn,

Cũng không thể ngồi xe giải thoát,

Hãy phát khởi một nỗ lực khác, 

Theo con đường đúng đắn chơn thật.


29. Con hãy đi đến ngọn núi kia, 

Ở nơi ấy có vị ẩn sĩ.

Sau khi đến, nhìn thấy vị ấy, 

Sẽ gặp được vị đại tiên nhân.

Hãy đảnh lễ dưới chân của ngài,

Bằng đầu trán cúi xuống sát đất,

Hãy cầu xin với ngài như vầy: 

“Con xin ngài, Thánh Nhân Tối Thượng, 

Hãy là nơi nương tựa của con.


30. Xin ngài hãy giảng dạy pháp lành, 

Dù pháp ấy chỉ trong chốc lát.

Con sợ hãi, hoảng loạn cực độ, 

Và đang chịu dày vò đau khổ.”


Sau khi nghe được lời nói vang vọng của vị thiên, người ấy, run rẩy khiếp sợ, liền hỏi vị thiên ấy rằng:


Những lời lẽ của ngài rất từ ái. Xin hỏi, ngài là ai vậy?


Vị thiên ấy trả lời:


“Này con thân yêu, Ta chính là cha con, là vị vua đã sống đúng chánh pháp. Sau khi ta chết, ta đã tái sinh làm thiên tử ở trời Ba Mươi Ba. Nay thấy con đang muốn huỷ hoại thân mình, con phải biết ai tự huỷ hoại thân mình, bằng hành động tự sát, thì sau khi chết, chắc chắn phải tái sinh vào cảnh giới địa ngục, phải chịu cảnh thống khổ cực độ, không cách nào thoát ra được. Ngay khi con vừa làm điều ác, tâm thức của con đã chìm sâu trong khổ đau của địa ngục, quỷ đói và súc sinh, chính con cũng cảm nhận được tâm thức ấy như một màn tối u ám che đậy, như nhà tù tối tăm khoá chặt chính con. Mặc dù thân con còn ở trên thế gian, nhưng tâm thức đã bị tối tăm cầm tù trói buộc, với bao nhiêu cảm thọ khổ đau, không như ý, với những cảm giác khó chịu khốc liệt khởi lên liên tục, và duy thức chìm sâu trong đêm tối u minh, tâm thức động loạn dữ dội như sóng biển lớn ập vào đất tâm ngày đêm không dứt, như ngọn lửa lớn thiêu cháy thân tâm của con. Đó là cảnh giới địa ngục. 


Nếu con không tự đưa mình ra ánh sáng, không tự mình giải thoát chính mình ra khỏi nhà tù tối tăm vô minh đó, thì sau khi chết, với trạng thái tâm thức tối tăm, động loạn dữ dội, con phải tái sinh vào cảnh giới địa ngục. Khi duy thức địa ngục mỏng dần, con vẫn phải tái sinh vào loài quỷ đói. Khi nghiệp quỷ đói hết, con phải tái sinh vào loài súc sinh, phải chịu cảnh sống chết trong vô minh, và rất khó để trở lại thân người. 


Nay con vẫn còn giữ được thân người, con vẫn còn cơ hội để Tích Luỹ Chánh Pháp, vẫn có thể thoát khỏi năm ác nghiệp vô gián, vẫn có thể sống hoàn toàn với chánh pháp.  


Con hãy mau đi đến ngọn núi nơi vị đại ẩn sĩ ấy đang sống. Nếu con chậm trễ, sau bảy ngày, chắc chắn con sẽ phải chết và đoạ địa ngục.”


Khi nghe được lời ấy, người ấy liền chắp tay hướng lên hư không cảm tạ và từ biệt cha, lòng kinh hoàng sợ hãi, rồi gấp rút đến ngọn núi kia để gặp vị ẩn sĩ ấy. 


Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai nói bài kệ này với con:


31. Sau khi người ấy đã đảnh lễ, 

Dưới chân của bậc đại ẩn sĩ,

Là bậc đại Thánh ma-hār-ṣi,

Người ấy liền dâng lời thỉnh cầu, 

Lời nói ấy chân thành trang nghiêm:

“Xin ngài giảng dạy pháp cho con,

Cho kẻ tội lỗi như con đây,

Với ngài, bậc đầy lòng từ bi, 

Người đang chịu khổ vì nghiệp ác.”


32. Bậc Thánh ẩn sĩ mới nói rằng: 

“Hỡi bậc tinh túy của chúng sinh, 

Hãy ngồi xuống và lắng nghe ta.

Hãy suy niệm trong một sát-ṇa.

Hãy lắng nghe lời nói của ta, 

Người kinh nghiệm khổ đau như con.

Sau khi nghe, hãy suy xét kỹ,

Về phương tiện được ta trình bày.”


33. Người ấy đang vô cùng sợ hãi, 

Bị khổ não bức bách thân tâm.

Và sau đó, người ấy ngồi xuống, 

Trong khoảng khắc sát-na rất ngắn, 

Và thưa rằng: “Con xin bày tỏ, 

Tất cả tội ác con đã tạo.”


Người ấy đã thưa lời này với vị ẩn sĩ, và vị ẩn sĩ nói như sau:


34. Hãy thọ dụng món ăn ta cho.

Con đang khóc chìm trong đau khổ, 

Bị thống hận bức bách thân tâm.

Con đang bị dày vò bởi đói, 

Và khát khô tiều tuỵ thân con.

Cứ như thế, con sẽ trở thành, 

Kẻ tuyệt vọng ở trong ba cõi.


35. Sau khi dâng lên các món ăn, 

Vị ẩn sĩ làm người hoan hỷ.

Ngài nói rằng: “Con hãy thọ dụng, 

Món ăn ngon, và rất dễ chịu, 

Làm no đủ cho thân thể con.


36. Rồi sau đó, thuyết pháp cho con, 

Chánh pháp ấy năng lực rất lớn,

Diệt trừ được tất cả nghiệp ác.”

Và người ấy dùng trong chốc lát, 

Món ăn ngon vị ẩn sĩ cho.


37. Khi ăn xong, người ấy rửa tay, 

Đi nhiễu quanh bên phải ẩn sĩ.

Rồi ngồi xuống tư thế kiết già, 

Và người ấy bắt đầu thú nhận, 

Các nghiệp ác mà mình đã tạo:


38. “Con đã giết mẹ và giết cha, 

Và con đã phá hoại tháp Phật; 

Những việc đó do chính con tạo.

Con đã tạo rất nhiều chướng ngại, 

Cản một vị Bồ Tát thành Phật.”


39. Sau khi nghe lời của người ấy, 

Vị ẩn sĩ liền nói lời sau:

“Ôi người kia, thật nhiều điều ác, 

Ông đã làm thật không đúng đắn, 

Việc ông làm không chấp nhận được.


40. Hãy nói hết tất cả ác nghiệp, 

Ông đã làm, khiến người khác làm, 

Dù trực tiếp hay là gián tiếp.”


Lúc bấy giờ, vào thời điểm ấy, người ấy, vì bị đâm sâu bởi nỗi thống khổ và sầu não, trở nên sợ hãi, run rẩy, hoang mang, lo lắng, và thốt lên rằng: “Ai sẽ là người cứu độ cho con đây?”


Khi ấy, vị ẩn sĩ đã nói con đường tái sinh phía trước của người ấy như sau:


41. “Nghiệp ác do con đã tạo ra,

Con phải chịu đựng khổ đau lớn,

Trong địa ngục cực đoan gào thét, 

Rau-ra-va rất đáng ghê sợ,

Cũng như trong địa ngục Bức Nhiệt,

Pra-tā-pa thiêu đốt khốc liệt.


Lúc bấy giờ, người ấy liền quỳ xuống dưới chân vị ẩn sĩ, và thưa rằng:


42. “Nguyện cho con xin được sám hối, 

Các nghiệp ác chính con đã làm, 

Hoặc con đã khiến người khác làm.

Mong quả báo ác đừng thành tựu,

Đừng để cho con phải gánh chịu, 

Các cảm thọ đau đớn thống khổ.


43. Nguyện xin Ngài, là Bậc Thánh Nhân, 

Trở thành nơi cứu hộ cho con,

Ngài gần kề, con xin phát nguyện, 

Nương theo ngài, hỡi Bậc Thánh Nhân.

Ngài là Bậc không còn mưu hại, 

Người an tịnh, người khéo giải thoát,

Làm lắng dịu nghiệp ác của con.”


100. Lúc bấy giờ, vị ẩn sĩ ấy vào thời điểm đó liền nói với người ấy như sau:


Chớ sợ, này thiện nam tử, ta sẽ là nơi cứu hộ của con, ta sẽ là con đường, ta sẽ là chốn nương tựa tối hậu của con. Hãy trực tiếp lắng nghe Chánh pháp từ nơi ta.


Này con, con đã từng nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp chưa?


Người ấy thưa rằng:


Con chưa từng nghe.


Vị ẩn sĩ liền nói:


Có ai lại giảng pháp cho một chúng sinh bị thiêu cháy bao giờ, ngoại trừ người giảng pháp ấy đang sống với tâm từ bi và giảng pháp vì lợi ích của chúng sinh.


Vị ẩn sĩ lại nói:


Hãy lắng nghe, này thiện nam tử.


101. Thuở quá khứ, cách nay vô lượng a-sam-khê kiếp, thậm chí còn nhiều hơn cả vô lượng a-sam-khê kiếp đó, đã từng có chuyện như vầy:


Vào thời ấy, có một vị vua tên là Vi-ma-la-can-đra - Vô Cấu Nguyệt, là một vị vua sống đúng Chánh pháp, là một vị Pháp Vương.


Này thiện nam tử, trong cung điện của vị vua Vô Cấu Nguyệt ấy, có một hoàng tử đã được sinh ra.


102. Lúc bấy giờ, vua Vô Cấu Nguyệt, tập hợp các vị Bà-la-môn là những người học giỏi kinh điển và tinh thông tướng số, xem tướng, rồi chỉ vào thái tử, ngài nói như sau:


“Này các vị Bà-la-môn, quý vị hãy xem tướng của thái tử này là lành hay chẳng lành?”


Bấy giờ, các vị Bà-la-môn tướng số nói rằng:


Thưa đại vương, thái tử này sinh ra với điềm chẳng lành với đầy đủ các tướng ác, quả thực chẳng lành.


Nghe điều đó, đức vua lo lắng hoảng hốt và hỏi lại:


Này Bà-la-môn, điều này là sao?


Vị tướng số nói:


Thưa bệ hạ, nếu thái tử này sống đến bảy tuổi, thì người này sẽ giết hại và đoạt mạng cả cha và mẹ. Mong bệ hạ hãy suy nghĩ kỹ, và hãy giết đứa trẻ này đi để đề phòng tai hoạ về sau.


Khi ấy, đức vua sau khi nghe những lời nói ấy, ngài suy nghĩ và nói rằng:


Thà ta chịu đoản mệnh, còn hơn ta giết chính con mình.


Tại sao vậy? 


Vì sinh làm người thật rất khó được, chỉ đôi khi, hiếm hoi mới được sinh làm người trong thế gian.


Ta sẽ không làm như vậy. Ngược lại, ta sẽ sớm lìa bỏ thân người quý báu này.


103. Lúc bấy giờ, vị thái tử ấy trưởng thành rất nhanh, những gì người khác phải mất hai năm thì cậu bé ấy chỉ mất một tháng.


Đức vua Vô Cấu Nguyệt hiểu rõ rằng:


“Thái tử này đang trưởng thành là do nghiệp tích tập của ta.”


Sau đó, đức vua làm lễ đăng quang cho thái tử ấy, và nói rằng:


“Vương quốc này sẽ thuộc về con, nguyện con có được danh tiếng rộng lớn, sự hưởng thụ, của cải, và uy lực của vương quyền, hãy cai trị bằng Chánh pháp, chớ bằng tà pháp.”


Sau đó, đức vua chính thức lập người đó làm Thái tử, và đặt tên là Quang Vương - “Rā-jê-ti”. Và đức vua Vô Cấu Nguyệt từ đó về sau không còn trị vì quốc gia của mình nữa, và lui làm thái thượng hoàng.


104. Lúc bấy giờ, 300 triệu đại thần đã đến nơi đức vua Vô Cấu Nguyệt. Sau khi đến gần, họ bạch với đức vua Vô Cấu Nguyệt như sau:


“Thưa đại vương, vì sao người không còn trị vì vương quốc của mình nữa?”


Đức vua đáp:


“Trong vô số a-sam-khê kiếp, ta đã từng hưởng thụ vương quyền, phú quý, và thống trị, thế nhưng, ta chưa từng cảm thấy thỏa mãn trong những quốc độ đó.”


Kế đó, vào thời điểm ấy, chẳng bao lâu sau khi nghe lời gièm pha của các gian thần về phụ vương và mẫu hậu của mình, vua Ra-jê-ti sinh tâm oán hận và thù ghét cha mẹ của mình, nên đã giết chết cả cha và mẹ, và giết toàn bộ số quần thần đó.


Những tự viện, tháp Phật mà vua cha Vô Cấu Nguyệt đã ủng hộ tạo dựng trước kia để an dân trị nước, qua những kế sách của những gian thần, vua Ra-jê-ti ban hành chính sách đập phá tất cả các tự viện, chùa chiền, tháp Phật trong nước, phá hoại Chánh Pháp.


Vì vậy, trong những hành vi đó của nhà vua đã tích lũy đủ năm nghiệp vô gián.


Ta vẫn còn nhớ rõ sự việc ấy từ rất lâu, này thiện nam tử, như thể mới ngày hôm qua hay hôm nay.


Lúc bấy giờ, này thiện nam tử, vua Ra-jê-ti do đã tích luỹ đủ năm nghiệp vô gián, nên tâm trí vua mờ tối, thân vua bị bệnh mà y sư cả nước thuở đó cũng không rõ nguyên nhân, toàn thân nổi các khối u mủ đau nhức, với cảm thọ đau khổ tột cùng.


105. Khi các cảm thọ đau khổ khởi lên nơi đức vua ấy, bấy giờ, vị vua ấy trở nên hối hận, cổ họng nghẹn ngào nước mắt, và than khóc rằng:


“Ta đã tạo rất nhiều nghiệp ác! Ta chắc chắn sẽ phải trải qua cảm thọ vô cùng đau khổ trong đại địa ngục A-tỳ!”


Rồi thì, lúc ấy, vua chiếu cáo y sư trên toàn quốc, nói ai trị hết cho vua sẽ thưởng ngàn lạng vàng. Khi ấy, ta là một vị ẩn sĩ tu sâu trong núi rừng, nghe được chiếu cáo ấy từ một người bạn đồng tu của ta, ta đã khởi tâm đại bi, đi đến nơi ấy, và thuyết giảng về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp cho vị vua ấy.


Sau khi vị vua ấy nghe pháp, cùng với uống những vị thuốc đơn giản để trị bệnh mà ta mang từ núi rừng, thì năm nghiệp vô gián của vua liền tiêu trừ hoàn toàn, tâm trí khai mở, biết cách tích luỹ chánh pháp. Vị vua ấy sau khi khỏi bệnh, đã hoàn toàn tôn trọng Phật, Pháp và Tăng, bãi bỏ các chính sách ép Tăng hoàn tục, cho xây dựng lại chùa chiền, tự viện, và trang nghiêm Tháp Phật để dân chúng cúng dường, ủng hộ kiết tập kinh điển, ghi lại dấu ấn của đức Như Lai thuở quá khứ thuyết pháp, xây dựng nhiều công trình công ích để phục vụ chúng sinh. Vị vua ấy đã trọng dụng hiền tài, đuổi các gian thần, tinh giảm thuế khoá, chăm lo phúc lợi và hạnh phúc của người dân. Tất cả các việc ác vị vua ấy đều từ bỏ, tất cả các việc lành vị vua ấy đều đã làm. Những lời nói và hành động gây hại cho chính mình và người khác, vị vua ấy từ bỏ. Những lời nói và hành động đem lại lợi ích và hạnh phúc cho chính mình và người khác, vị vua ấy đã sử dụng. Vị vua ấy nhận thức rõ ràng như vậy.


Đối với bản thân của mình, vị vua ấy làm thấm nhuần các pháp như Bố Thí, Giữ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định và Tuệ Giác Bát Nhã. 


Đối với đức Phật Thế Tôn, các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát, các vị Hoà Thượng với đời sống phạm hạnh thanh tịnh, vị vua ấy đều tôn kính, kính trọng, tôn thờ, coi họ là thầy, đều cúng dường y phục, bát ăn, thức ăn, giường ngủ, ghế ngồi. Đối với người bệnh, ông ấy cúng dường dược phẩm, và cung cấp tất cả các thứ cần thiết khác. Ông ấy còn cung cấp tất cả sự an lạc tiện lợi như phương tiện đi lại, đường sá, cầu đò, xe cộ, đồ dùng êm ái, ấm cúng, dụng cụ gia đình tiện dụng, chỗ ở cư trú, nhà cửa, phòng xá, trường học, giảng đường, bệnh viện, công viên, vườn cây, khu vui chơi giải trí hạnh phúc an lạc cho tất cả các chúng sinh, kể cả họ là thương gia, gia chủ, quan lại, chiến binh, bà la môn, những người giàu có quyền quý, và các gia đình.


Suốt quãng thời gian đó, vị vua ấy chẳng bao giờ có suy nghĩ về tham dục, nóng giận hay bạo lực, kể cả các ý tưởng về tham dục, nóng giận hay bạo lực cũng chẳng bao giờ sanh khởi nơi ông ấy. Ông ấy cũng chẳng bao giờ phát sinh suy nghĩ về hình sắc, âm thanh, hương vị, mùi vị và xúc giác. 


Ông ấy thực sự đã trở thành một người trẻ đẹp, thiện lương, tốt lành, sống an lạc, hạnh phúc, khoan dung, may mắn, được nuôi dưỡng tốt, ít ham muốn, dễ hài lòng, sống tách biệt, không độc ác, không mê lầm, không nghi ngờ, thẳng thắn, không giả dối, không gian dối, tâm tính mềm mại, lời nói dễ nghe, luôn luôn tận tâm, tìm kiếm pháp trắng, giao phó trọng trách tốt đẹp, vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên đã tạo ra nguyện lớn, luôn tôn trọng Phật, Pháp, Tăng, luôn tôn trọng thầy tốt và bạn tốt.


Đó chính là cách ông ấy tích luỹ chánh pháp cho chính mình. Không lâu sau đó, vị vua ấy trở thành một người sống hoàn toàn với chánh pháp.


Khi ấy, vị ẩn sĩ ấy lại nói rằng:


44. Những ai lắng nghe bài giảng pháp,

Thấu hiểu Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, 

Là vua tối thượng trong các kinh,

Là pháp tối thắng để hành trì,

Người ấy sẽ đạt quả Vô Thượng.


45. Tất cả nghiệp ác sẽ tiêu trừ,

Mọi phiền não sẽ được đoạn diệt.

Hãy lắng nghe pháp, ta thuyết giảng,

Nhờ đó, nhanh chóng được giải thoát.


46. Chỉ cần nghe một kệ bốn câu,

Người ấy đoạn trừ mọi nghiệp ác, 

Và chứng được quả vị Nhập Lưu.


47. Vì vậy, ta tuyên thuyết bố thí, 

Là pháp giải thoát mọi tội ác,

Chúng sinh khổ đau được giải thoát, 

Khỏi địa ngục, sợ hãi cực đoan.


48. Rồi thì, người ấy liền đứng dậy, 

Khỏi chỗ ngồi, chắp tay cung kính,

Cúi đầu đảnh lễ vị thầy ấy, 

Tán thán ngài bằng lời “lành thay”:


49. Lành thay thưa bậc thiện tri thức, 

Lành thay người diệt trừ nghiệp ác,

Lành thay cho những ai nghe được,

Cách Tích Luỹ Chánh Pháp Đại Thừa.


106. Lúc bấy giờ, vào thời điểm ấy, có 12.000 thiên tử đang an trú giữa hư không phía trên, họ chắp tay đảnh lễ, đến gần đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai, đảnh lễ nơi chân ngài bằng trán cúi sát đất, và nói rằng:


“Thưa đức Thế Tôn, thưa bậc Đại Hạnh, ngài còn nhớ rõ việc này đã bao lâu chăng?”


Cũng như vậy, có 40 triệu vua rồng đã đến, và 180 tỷ vua Dạ-xoa cũng đến. Họ đến chỗ đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai, chắp tay cúi lạy, và cũng thưa rằng:


“Ngài còn nhớ rõ điều này đã bao lâu rồi chăng?”


107. Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai liền nói:


“Ta còn nhớ rõ việc này xảy ra cách nay 1 tỷ tỷ a-sam-khê kiếp.”


Các vị kia thưa:


Với thiện nghiệp nào mà trong chỉ một khoảnh khắc, tất cả ác nghiệp của chúng con lại được dứt trừ nhanh chóng như vậy? 


Đức Thế Tôn Liên Hoa Tạng Như Lai đáp:


Do các ông đã từng lắng nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp trong quá khứ, nhờ thiện nghiệp đó, nên tất cả ác nghiệp của ông hôm nay đều được lắng dịu.


108. Những chúng sinh nào đã hội họp nơi đây, và những ai sau khi đã nghe bài giảng pháp này, đã khởi lòng tin hoặc ghi nhớ giữ gìn, thì tất cả những vị ấy sẽ được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


Và người nào đã tạo ra năm nghiệp vô gián, nếu người ấy chỉ cần nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này trong khoảnh khắc ngắn ngủi, thì năm nghiệp vô gián ấy sẽ được tiêu trừ hoàn toàn.


Trong số hàng trăm ngàn tỷ tỷ kiếp về sau, tất cả các cửa dẫn đến ác đạo của người ấy sẽ bị đóng lại, ba mươi hai cánh cửa dẫn đến các cõi trời sẽ được mở ra cho người ấy.


Ai từ nơi bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, chỉ cần nghe một bài kệ bốn câu, thì nơi người ấy, căn lành sẽ phát sinh lớn như thế, huống chi, người nào cung kính, tôn trọng, tán dương, và cúng dường Kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, dù chỉ với hoa, hương, hương thơm, vòng hoa, dầu thơm, bột hương, y phục, lọng, cờ, phướn, hay bằng âm nhạc cúng dường, chắp tay, hay cúi lạy, hoặc chỉ cần một lần tùy hỷ, rồi nói rằng: “Lành thay! Lời pháp thật là khéo nói!”, thì căn lành của người ấy còn nhiều hơn nữa.


109. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, liền thưa với đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni rằng:


Thưa đức Thế Tôn, khi chắp tay cúi lạy, thì khối lượng công đức được tích luỹ phát sinh là bao nhiêu, đối với những người khi nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này đang được thuyết giảng, liền chắp tay và đảnh lễ?


Đức Thế Tôn liền dạy rằng:


Hãy lắng nghe, này thiện nam tử.


Nếu có người nào đã tự làm, hoặc khiến người khác làm, hoặc đang làm, hoặc tùy hỷ năm tội vô gián, mà người ấy chỉ cần từ nơi bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, nghe một bài kệ bốn câu, rồi chắp tay cúi lạy, thì tất cả năm nghiệp vô gián ấy sẽ được tiêu diệt.


Huống chi, này Nhất Thiết Dũng, nếu có người nghe trọn vẹn toàn bộ bài giảng pháp này, thì người ấy sẽ tích lũy được khối lượng công đức còn nhiều hơn nữa.


110. Này thiện nam tử, ta sẽ nêu một thí dụ để giúp ông hiểu rõ ý nghĩa của Kinh Tích Luỹ Chánh Pháp.


Ví như, này Nhất Thiết Dũng, trong cung điện của vua rồng A-na-va-tap-ta, chưa bao giờ mặt trời chiếu sáng tới được. Từ nơi ấy, có năm con sông lớn chảy ra.


Giả sử có một người nào đó, muốn đếm từng giọt nước trong năm con sông lớn ấy, này Nhất Thiết Dũng, ông nghĩ sao? Liệu có thể nào đạt được đến tận cùng bằng cách đếm các giọt nước ấy chăng?


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, điều đó không thể, thưa đức Thiện Thệ, quả thật không thể.


Đức Thế Tôn nói rằng:


Cũng như vậy, này Nhất Thiết Dũng, căn lành phát sinh từ bài giảng pháp về Kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, dù trải qua một kiếp, hay một trăm kiếp, hay một ngàn kiếp, hay một trăm ngàn kiếp, hoặc hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ kiếp, dùng phương pháp đếm cũng không đạt đến tận cùng được.


111. Này Nhất Thiết Dũng, ông nghĩ sao? Có phải rất khó đối với người nào có thể chỉ trong một khoảnh khắc, tuyên dương bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp chăng?


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, quả thật rất khó, thưa đức Thiện Thệ, quả thật rất khó.


Đức Thế Tôn dạy rằng:


Còn khó hơn nữa, này Nhất Thiết Dũng, là đối với người nào đủ năng lực để lắng nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này.


112. Ví như từ hồ lớn A-na-va-tap-ta chảy ra năm con sông lớn.


Không ai, dù là người đếm giỏi, hay là các đại quan chuyên đếm lường, có thể đếm đến tận cùng số giọt nước của năm con sông lớn ấy đang chảy ra.


Cũng như vậy, khối lượng công đức tích luỹ từ bài giảng pháp này không thể nào đạt đến tận cùng.


Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, năm con sông lớn ấy là những sông nào?


Đức Thế Tôn nói rằng:


Đó là: sông Hằng, sông Sī-tā, sông Vak-ṣuḥ, sông Ya-mu-nā, và sông Can-đra-bhā-gā. 


Này Nhất Thiết Dũng, năm con sông lớn này đều đổ vào đại dương. Và mỗi một con sông lớn lại có hàng trăm nhánh sông lớn khác làm phụ lưu bao quanh.


113. Lại nữa, này Nhất Thiết Dũng, có năm dòng khí lớn này chuyển động trong hư không. Những dòng khí ấy, mang vô số hơi nước tuôn chảy liên tục, làm thấm nhuần tất cả chúng sinh. Và năm dòng khí lớn ấy, mỗi dòng khí đều có hàng ngàn phụ lưu đi kèm.


Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, năm dòng khí lớn có ngàn phụ lưu ấy là những dòng khí nào chuyển động trong hư không?


Đức Thế Tôn nói rằng:


Đó là Dòng khí trong sáng Sun-đa-rī, dòng khí toả khắp muôn phương Śaṃ-khā, dòng khí lưu thông Va-han-tī, dòng khí năng lực kỳ diệu Ci-tra-se-nā, và dòng khí hành pháp Dhar-ma-vṛit-tā – mỗi dòng khí ấy đều có ngàn phụ lưu.


Này Nhất Thiết Dũng, năm dòng khí lớn này với ngàn phụ lưu này, chính là những dòng khí mang hơi nước và tích nước rơi xuống cõi Diêm-phù-đề này, khi đến thời kỳ khô hạn.


Đến từng thời kỳ nhất định, những dòng khí lớn ấy sẽ tích nước rơi xuống cõi Diêm-phù-đề với các trận mưa giọt dài liên tục. Nhờ vậy, các loại hoa, quả và cây lương thực sẽ sinh trưởng tốt đẹp.


Khi các giọt mưa rơi xuống cõi Diêm-phù-đề, lúc đó nước sẽ sinh khởi. Nước ấy khi sinh khởi, sẽ thấm nhuần tất cả ruộng đồng và vườn cây, và đem lại sự an lạc, giống như, này Nhất Thiết Dũng, một vị chủ thế gian ban phát sự an lạc cho toàn cõi Diêm-phù-đề.


114. Cũng như vậy, này Nhất Thiết Dũng, bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp đã được tuyên thuyết tại cõi Diêm-phù-đề vì lợi ích cho số đông và vì sự an lạc của số đông.


Này Nhất Thiết Dũng, tuổi thọ của chư Thiên cõi trời Ba Mươi Ba khác hẳn với tuổi thọ của loài người.


Này Nhất Thiết Dũng, Ta sẽ nói rõ về chư Thiên cõi trời Ba Mươi Ba, nơi ấy là chỗ ở của Thiên chủ śak-ra, vua của chư thiên. Chính các vị trời ở nơi ấy được gọi là chư thiên trời Ba Mươi Ba.


Lấy một ví dụ về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, này Nhất Thiết Dũng, nếu chúng sinh chỉ cần nói một lời đúng đắn, lành thiện, thì khối lượng công đức tích lũy, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu của người ấy không thể nào so sánh được.


Bởi vì, sự an lạc và cảm giác dễ chịu ấy, giống như những cảm thọ mà chư Thiên ở cõi trời Ba Mươi Ba thọ nhận, khi chỉ nói một lời đúng đắn thiện lành. Huống chi còn làm thêm nhiều việc lành khác nữa, thì khối lượng công đức tích lũy, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu của người ấy là vô lượng vô biên, không thể nào tính đếm được.


115. Này Nhất Thiết Dũng, cũng có những chúng sinh chỉ vì nói một lời ác khẩu, mà khổ báo của họ là trong địa ngục hay súc sinh, không thể nào có sự so sánh tương xứng.


Bởi vì các chúng sinh ấy, khi chỉ nói ra một lời ác khẩu, họ đã gieo hạt giống ác, khổ đau, nóng bức, khó chịu trong đất tâm của mình. Hạt giống ấy nảy mầm, lớn lên, và ngày càng phát triển, khiến cho tâm trí họ không được lắng dịu, sống trong u ám, cuộc sống hiện đời nhiều chướng ngại, không có hạnh phúc và an lạc, thường phải bị các khổ bức bách, thân tâm khó chịu, thường bị các cảm xúc tiêu cực hành hạ, không có lối thoát, lòng thường bực tức không vui, những sự việc xảy ra không bao giờ như ý người ấy. Sau khi bỏ thân người, họ phải chịu cảm thọ khổ đau trong các cõi địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ. Và không ai có thể cứu họ khỏi cảnh khổ ấy.


Khi rơi vào địa ngục, họ hoàn toàn tuyệt vọng, than khóc khổ não. Điều đó nên được hiểu là do ảnh hưởng của ác tri thức, kết giao những người bạn không lành.


Còn đối với những chúng sinh nói lời lành thiện, thì khối lượng công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu của họ không thể nào đem ra so sánh được. Việc ấy nên được xem là do ảnh hưởng của thiện tri thức, kết giao với những người bạn lành.


116. Khi nào một người thấy được thiện tri thức, thì lúc ấy chính là thấy được Như Lai. Và khi nào thấy được Như Lai, thì ngay lúc ấy, tất cả ác nghiệp của người ấy đều được tiêu diệt.


Khi mọi nghiệp ác được tiêu diệt, thì khi ấy vị chủ nhân thật sự nơi tâm xuất hiện. Và khi vị chủ nhân thật sự nơi tâm xuất hiện, chính là lúc chính mình có thể kiểm soát, làm chủ tất cả tâm thức, mang lại sự hân hoan, an lạc, thanh tịnh, trong sáng và dễ chịu cho chính mình. Và sự hạnh phúc an lạc ấy không thể nào đem ra so sánh được.


Cũng giống như, vị chủ của thế gian xuất hiện, sẽ đem lại sự hân hoan cho cõi Diêm-phù-đề. Khi vị chủ thế gian ấy khiến cho Diêm-phù-đề hoan hỷ, thì sự an lạc và hạnh phúc của chúng sinh nơi Diêm-phù-đề không thể nào đem ra so sánh được.


Cũng như vậy, này Nhất Thiết Dũng, bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này chính là hành nghiệp của chư Phật đối với chúng sinh nơi Diêm-phù-đề. Và khi ấy, khối lượng công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu được tích luỹ của các chúng sinh khi nghe bài giảng pháp ấy, không thể nào đem ra so sánh được.


117. Ví như, này Nhất Thiết Dũng, nơi mà năm con sông lớn hội tụ và đổ vào nhau, thì nơi ấy, không thể nào xác định được lượng nước. Dù là bao nhiêu bình nước, hoặc hàng trăm bình, hoặc hàng ngàn bình, hoặc là hàng trăm ngàn bình nước. Vì số lượng nước quá lớn, nên chỉ có thể gọi đó là “Một khối nước lớn”, không thể đo đếm chính xác được.


118. Cũng như vậy, này Nhất Thiết Dũng, khi nào các chúng sinh cõi Diêm-phù-đề lắng nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, nghe rồi, họ ghi nhận, ghi nhớ, đọc tụng, và hiểu nghĩa trọn vẹn, lại còn diễn giải rộng rãi cho người khác, thực hành thành tựu, và sống hoàn toàn với chánh pháp, thì khi ấy, khối lượng công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu được tích luỹ của những chúng sinh đó không thể nào đo lường được. Mà chỉ có thể nói rằng, vì công đức quá lớn, nên gọi là “một khối công đức vĩ đại”.


119. Này Nhất Thiết Dũng, những chúng sinh nào không lắng nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, thì những chúng sinh ấy không thể nào chứng đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Họ không thể chuyển bánh xe Chánh pháp. Họ không thể gióng lên tiếng chuông chánh pháp. Những người ấy không thể bước lên tòa sư tử của Chánh pháp. Họ không thể nào đi vào cảnh giới Niết-bàn tịch tịnh. Họ không thể nào phát ra hào quang vô lượng. Những ai không lắng nghe bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, thì họ cũng không thể nào ngồi nơi đạo tràng Giác Ngộ.


120. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, con xin hỏi, thưa đức Thiện Thệ, con có một điều khởi tâm tò mò và thắc mắc.


Đức Thế Tôn nói rằng:


Ông cứ hỏi đi, này Nhất Thiết Dũng, bất cứ điều gì ông mong cầu, ta sẽ làm cho ông được hoàn toàn thỏa mãn.


Nhất Thiết Dũng hỏi rằng:


Thưa đức Thế Tôn, vị ẩn sĩ ấy là ai, người đã cứu độ những chúng sinh ấy, những người đã từng tạo năm tội vô gián, và lại còn được an lập nơi địa vị không còn thoái chuyển?


Đức Thế Tôn dùng kệ đáp rằng:


50. Này Nhất Thiết Dũng, lắng nghe ta:

Lời thuyết giảng của các đức Phật,

Rất là vi tế và sâu kín.

Với kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, 

Chính là hình tướng của trí tuệ, 

Được hiển bày hình thức khả kiến,

Thông qua thân tướng vị ẩn sĩ,

Và những ai tích luỹ chánh pháp.


51. Tích Luỹ Chánh Pháp có bản chất, 

Chính là hiện thân của đức Phật,

Một Bậc Giác Ngộ Trí Toàn Giác, 

Được hiển bày với tâm đại bi.

Cũng giống như nhờ sông Gaṅ-gā, 

Vùng đất Ba-li-ka xuất hiện,

Hiển hiện dòng nước chảy thanh tịnh, 

Chơn như cũng được thấy như vậy.


52. Chính đức Phật hiển hiện thân tướng,

Và chính Ngài tự mình thuyết pháp.

Ai mong muốn được thấy đức Phật,

Bậc Chiến Thắng, Lãnh Đạo thế gian.


53. Nên lắng nghe Tích Luỹ Chánh Pháp,

Chính vì khi Tích Luỹ Chánh Pháp,

Chính là thấy được Phật Toàn Giác.

Nơi nào có Tích Luỹ Chánh Pháp,

Thì nơi đó Phật thường ngự trị.


121. Đức Thế Tôn nói rằng:


Hãy lắng nghe, này thiện nam tử, về cách ta đã tích luỹ chánh pháp thuở quá khứ thông qua cách dũng mãnh thực hành bố thí.


Thuở xưa, này Nhất Thiết Dũng, ta nhớ lại 99 a-sam-khê kiếp đã trôi qua trong thời quá khứ. Trong khoảng thời gian ấy, có 120 triệu Đức Phật xuất hiện, hiệu là rat-not-ta-ma - Châu Báu Tối Thượng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


Vào thời điểm ấy, ta là một người dũng mãnh nổi bật trong hạnh bố thí, tên là Can-dra - Mặt Trăng. Ta đã phụng thờ đầy đủ 120 triệu Đức Phật ấy, bằng cách dâng lên các món ăn cứng và món ăn mềm, vòng hoa, hương thơm, dầu xoa thân, đúng theo khả năng và sự an lạc thanh tịnh của ta, cùng với thức ăn thượng diệu và tất cả vật dụng đem lại an lạc, ta đã tận tâm cúng dường.


Sau khi phụng thờ như vậy, ngay tại nơi ấy, này Nhất Thiết Dũng, ta đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


122. Này Nhất Thiết Dũng, ta nhớ rõ 180 triệu Đức Phật đã xuất hiện trên thế gian, tất cả đều hiệu là rat-nā-va-bhā-sa - Ánh Sáng Châu Báu Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


Vào thời ấy, ta cũng là người có tâm rộng lớn dũng mãnh trong hạnh bố thí, tên là gar-bha-se-na - Tạng Quân.


180 triệu Đức Phật ấy đã được ta tận tâm phụng thờ và cúng dường. Theo từng vị Như Lai, ta đã dâng cúng hương thơm, hoa, dầu xoa thân, và các vật trang nghiêm quý báu. Và ngay tại đó, ta đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


123. Này Nhất Thiết Dũng, ta nhớ lại: Đã có 1 tỷ 20 triệu Đức Phật đã xuất hiện trên thế gian, hiệu là śi-khi-saṃ-bha-va - Thành Tựu Đỉnh Cao Trí Tuệ Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác. Những Đức Phật ấy đều đã được ta phụng thờ và tôn kính bằng sự cúng dường xứng đáng và cung kính tối thượng.


Ngay tại nơi ấy, ta đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và trong suốt quãng thời gian đó, từ đức Như Lai đầu tiên cho đến đức Như Lai cuối cùng, chưa từng có lúc nào ta không được thọ ký.


124. Này Nhất Thiết Dũng, ta cũng nhớ lại: Thuở quá khứ, đã có 200 triệu Đức Phật xuất hiện trên thế gian, đồng một danh hiệu là kāś-sa-pa - Đại Địa Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


Lúc ấy, ta cũng là một người dũng mãnh nổi bật trong hạnh bố thí. Ta đã phụng thờ những Đức Như Lai ấy, bằng cách dâng lên hương thơm, hoa, dầu xoa, và cung kính thờ phụng đúng như cách tôn nghiêm các bậc thầy Đạo sư Như Lai. Những gì cần làm để biểu hiện sự tôn kính tối thượng đối với các bậc Thầy Đạo Sư Như Lai ấy, ta đều đã thực hành đầy đủ. Ngay tại nơi ấy, ta đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


125. Này Nhất Thiết Dũng, ta nhớ lại: Thuở quá khứ có 160 triệu Đức Phật đã xuất hiện trên thế gian, hiệu là vi-ma-la-pra-bhā-sa - Tịnh Quang Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


Vào thời điểm ấy, ta là một vị trưởng giả tại gia, giàu có sung túc, có tài sản lớn, nhiều thụ hưởng, và nổi tiếng là người xả bỏ tất cả, là người thực hành một đại hành thí.


160 triệu Đức Phật ấy đã được ta phụng thờ bằng cách trải nệm và mền, dâng hương, hoa, dầu thơm, và các loại y phục cùng trang sức quý báu. Tất cả những gì cần làm trong việc phụng thờ tôn kính các Đức Như Lai, ta đều đã làm trọn vẹn.


Ngay tại nơi ấy, ta đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và chưa từng có thời điểm nào mà ta không được thọ ký.


126. Hãy lắng nghe, này Nhất Thiết Dũng, về cách tích luỹ chánh pháp của ta thuở quá khứ bằng cách thực hành theo đúng chánh pháp kết hợp với bố thí, xả bỏ mọi sở hữu ưa thích.


Ta nhớ lại rằng: Đã có 950 triệu Đức Phật xuất hiện trên thế gian, tất cả đều có cùng danh hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


Vào thời điểm ấy, ta là một vị quốc vương, tu hành theo chánh pháp, hiệu là Pháp Vương.


950 triệu đức Như Lai mang danh hiệu là Thích Ca Mâu Ni ấy, đã được ta phụng thờ. Ta đã dâng cúng các Ngài bằng hương thơm, vòng hoa, dầu thơm xoa thân, vải trải và màn che, lọng, cờ và phướn.


Ngay tại nơi ấy, ta đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


127. Này Nhất Thiết Dũng, ta nhớ lại: Thuở quá khứ, đã có 900 triệu Đức Phật xuất hiện trên thế gian, hiệu là Kra-khu-chan-đā - Lập Địa Hoan Hỷ Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


Vào thời điểm ấy, ta là một đồng tử Phạm Thiên, giàu có, sở hữu nhiều tài vật, thụ hưởng sung mãn, là người thường bố thí, và xả bỏ mọi sở hữu.


Tất cả các Đức Như Lai ấy đã được ta thân cận cúng dường. Ta đã phụng thờ các Ngài bằng hương thơm, hoa, dầu xoa thân, nệm trải và áo phủ, cùng các loại y phục và trang sức quý báu. Cách thức phụng thờ ấy đã được ta thực hiện đúng theo mức độ xứng đáng đối với từng vị Như Lai.


Ngay tại nơi ấy, ta đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và chưa từng có lúc nào, hay thời điểm nào, mà ta không được thọ ký.


128. Này Nhất Thiết Dũng, ta nhớ lại: Đã có 180 triệu Đức Phật xuất hiện trên thế gian, tất cả đều đồng danh hiệu là ka-na-ka-mu-ni - Kim Thánh Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


Vào thời điểm ấy, ta là người dũng mãnh nổi bật trong hạnh bố thí. Các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác ấy, đã được ta phụng thờ và cúng dường.


Ta đã phụng thờ các Ngài bằng hương thơm, vòng hoa, dầu xoa thân, nệm trải, mền phủ, và các loại trang sức quý báu. Việc phụng thờ ấy đã được ta thực hiện đúng như sự tôn kính dành cho các bậc Thầy Đạo Sư Như Lai.


Ngay tại nơi ấy, ta đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chưa từng có thời điểm nào hay lúc nào mà ta không được thọ ký.


129. Này Nhất Thiết Dũng, ta nhớ lại: Đã có 130 triệu Đức Phật xuất hiện trên thế gian, tất cả đều đồng hiệu là va-bhā-sa-śir - Quang Đỉnh Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


Những đức Như Lai ấy đã được ta cúng dường bằng nệm và mền phủ, hương thơm, vòng hoa, dầu xoa thân, y phục và các trang sức quý giá. Việc phụng thờ ấy đã được thực hiện đúng như cách tôn kính dành cho Như Lai, và các Ngài đã được ta phụng thờ đầy đủ.


Và các Đức Như Lai ấy đã thuyết giảng cho ta vô số pháp môn, làm sáng rõ nghĩa lý, hướng dẫn điều phục, và phân biệt rõ ràng.


Ngay tại nơi ấy, ta đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và trong suốt quãng thời gian đó, từ đức Như Lai đầu tiên cho đến đức Như Lai cuối cùng, chưa từng có thời điểm nào mà ta không được thọ ký.


130. Này Nhất Thiết Dũng, ta nhớ lại rằng: Đã có 250 triệu Đức Phật xuất hiện trên thế gian đều đồng danh hiệu là Puṣ-sa - Cát Tường Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


Vào thời điểm ấy, ta đã xuất gia, từ bỏ đời sống gia đình, hướng đến đời sống không gia đình.


Những Đức Như Lai ấy đã được ta phụng thờ, cũng giống như ngày nay, A-nan-đa đang phụng sự ta trong vai trò hầu cận. Chính trong hình thức ấy, những Đức Như Lai ấy đã được ta phụng thờ.


Ngay tại nơi ấy, ta đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và trong suốt quãng thời gian đó, từ đức Như Lai đầu tiên cho đến đức Như Lai cuối cùng, chưa từng có thời điểm nào mà ta không được thọ ký.


131. Này Nhất Thiết Dũng, ta nhớ lại: Đã từng có 180 triệu Đức Phật xuất hiện trên thế gian, đồng một danh hiệu là vi-paś-sin - Bậc Thấy Phân Biệt Chơn Chánh Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


Những đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác ấy, đã được ta tận tâm phụng thờ. Ta đã dâng cúng các Ngài bằng y phục quý giá, áo che thân, hương thơm, vòng hoa và dầu thơm. Việc phụng thờ ấy đã được thực hiện đúng như nghi lễ xứng đáng với Như Lai, và các Ngài đã được ta cúng dường đầy đủ.


Vào thời điểm ấy, ta là người đã xuất gia, từ bỏ đời sống gia đình, hướng đến đời sống không gia đình.


Ngay tại nơi ấy, ta đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và trong suốt quãng thời gian đó, từ đức Như Lai đầu tiên cho đến đức Như Lai cuối cùng, chưa từng có lúc nào ta không được thọ ký, và điều ấy đã xảy ra không lâu trong quá khứ.


132. Vị cuối cùng trong số các Đức Phật hiệu là Vi-paś-sīn đã xuất hiện trên thế gian, chính Ngài ấy đã tuyên thuyết bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này cho ta.


Sau khi ta biết được Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, vào thời điểm đó, ta đã khiến cho nơi cõi Diêm-phù-đề mưa xuống một trận mưa bảy báu. Khi ấy, các chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề đều trở nên không còn nghèo khổ.


Ngay tại nơi ấy, ta đã được thọ ký Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


Nhưng kể từ đó, sau một thời gian rất dài, đức Phật ấy vẫn chưa thọ ký cho ta, và chưa một đức Như Lai nào thọ ký cho ta bằng sự thọ ký qua sự nhẫn đối với các pháp không còn sinh khởi (Vô Sinh Pháp Nhẫn).


113. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng hỏi rằng:


Thưa đức Thế Tôn, thời gian đó là lúc nào? Thời điểm ấy là khi nào, khi đức Thế Tôn được các đức Như Lai thọ ký qua sự nhẫn đối với các pháp không còn sinh khởi?


Đức Thế Tôn nói:


Hãy lắng nghe, này Nhất Thiết Dũng, về cách ta tích luỹ chánh pháp thông qua hồi hướng toàn bộ công đức, và tất cả sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu của ta về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, để được đức Như Lai thọ ký cho ta qua sự nhẫn đối với các pháp không còn sinh khởi.


Sau đó, này Nhất Thiết Dũng, trải qua hai a-sam-khê kiếp, có một đức Phật xuất hiện trên thế gian, hiệu là Đī-paṃ-ka-ra - Nhiên Đăng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


Khi ấy, này Nhất Thiết Dũng, vào chính thời điểm đó, ta là một cậu học trò còn độ tuổi thiếu niên tên là Mê-gha - Mây.


Khi đức Thế Tôn Nhiên Đăng Như Lai xuất hiện trên thế gian, thì ta lúc đó cũng đã hành trì phạm hạnh dưới hình tướng một cậu học trò với độ tuổi thiếu niên.


Sau đó, khi thấy được đức Thế Tôn Nhiên Đăng Như Lai, ta đã phát khởi tín tâm thanh tịnh.


Ta đã rải lên Ngài bảy đóa hoa sen xanh ut-pa-la, và ta hồi hướng toàn bộ công đức ấy, tất cả sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu phát sinh nơi ta, toàn bộ thiện căn mà ta đã gieo trồng nơi Như Lai – về quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


Và đức Phật Nhiên Đăng Như Lai ấy đã thọ ký cho ta rằng:


“Này thiếu niên, trong thời tương lai sau này, trải qua 1 a-sam-khê kiếp, con sẽ thành một đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.”


134. Sau đó, này Nhất Thiết Dũng, ta đã đứng giữa hư không cao bằng mười hai thân cây thốt nốt tā-la, và chứng được sự nhẫn đối với các pháp không còn sinh khởi.


Và này Nhất Thiết Dũng, phạm hạnh mà ta đã thực hành trong 1 a-sam-khê kiếp, cùng với mọi thiện căn gắn liền với các Ba-la-mật Bờ Bên Kia pā-ra-mi-tā, tất cả những điều ấy, ta đều nhớ lại một cách rõ ràng, như thể chúng vừa xảy ra hôm qua hay hôm nay, như đang hiện ra ngay trước mặt. Nơi ấy, này Nhất Thiết Dũng, vô số hàng ngàn triệu tỷ tỷ tỷ tỷ chúng sinh đã được ta an lập vào trong các thiện pháp.


Huống chi là bây giờ, này Nhất Thiết Dũng, khi ta đã thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là bậc mong muốn làm lợi ích, mang lại hạnh phúc cho tất cả chúng sinh, đầy tâm từ bi, và ta sẽ thuyết giảng phương pháp đoạn tận dành cho tất cả chúng sinh.


135. Này Nhất Thiết Dũng, hãy lắng nghe cách ta tích luỹ chánh pháp bằng cách hoà nhập, đồng hình tướng, đồng việc làm với chúng sinh và thuyết pháp nhằm hướng dẫn họ cách đạt được Tối thượng Tỉnh thức trong chính cảnh giới của họ.


Này Nhất Thiết Dũng, nếu có ai nói rằng, ta chỉ dùng một pháp đoạn tận để thuyết giảng cho tất cả chúng sinh, thì điều này không thể xảy ra.


Vì sao vậy?


Này Nhất Thiết Dũng, ta thuyết pháp cho các chúng sinh bằng nhiều cách khác nhau.


Ta thuyết pháp đúng theo hình tướng với “bản chất chơn thật như nó đang là” phù hợp với từng loại chúng sinh cần được điều phục.


Ta thị hiện thân chư Thiên trong cõi trời để thuyết pháp cho chư Thiên.


Trong cung điện của loài Rồng, ta hiện làm thân Rồng để thuyết pháp cho các Long chúng.


Tại chỗ ở của Dạ-xoa, ta hiện thân Dạ-xoa để thuyết pháp cho các Dạ-xoa.


Trong cảnh giới của ngạ quỷ, ta hiện thân ngạ quỷ để thuyết pháp cho các ngạ quỷ.


Tại thế giới loài người, ta hiện thân người để thuyết pháp cho con người.


Đối với những chúng sinh cần được điều phục bởi Đức Phật, ta thị hiện thân Phật để thuyết pháp.


Đối với chúng sinh cần được điều phục bởi Bồ Tát, ta thị hiện thân Bồ Tát để thuyết pháp.


Đối với chúng sinh cần được điều phục bởi hàng Thanh Văn, ta hiện thân Thanh Văn để thuyết pháp.


Bằng bất cứ hình tướng nào mà chúng sinh có thể được điều phục, chính bằng hình tướng ấy, ta thuyết pháp cho các chúng sinh, để hướng dẫn họ cách đạt được Tối thượng Tỉnh Thức.


Như vậy, này Nhất Thiết Dũng, ta thuyết pháp cho các chúng sinh bằng nhiều phương tiện khác nhau.


136. Vì sao vậy?


Này Nhất Thiết Dũng, giống như các chúng sinh lắng nghe pháp bằng nhiều hình thức khác nhau, cũng như vậy, các bậc tinh túy trong chúng sinh cũng thuyết pháp cho các chúng sinh bằng nhiều phương tiện khác nhau.


Những chúng sinh ấy sau khi hiểu cách tích luỹ chánh pháp, họ gieo trồng thiện căn nơi các Đức Như Lai. Họ bố thí, để tích lũy phước đức. Họ tu tập tỉnh thức để lợi ích cho bản thân mình, và tu tập niệm về cái chết để diệt trừ hoàn toàn sự tham đắm.


Họ sẽ tu tạo các nghiệp thiện như vậy. Chính nhờ vào nhân của thiện căn nghe pháp, họ sẽ chơn chánh nhớ lại và có lại được trọn vẹn những thiện căn, trạng thái hoan hỷ, an lạc, hạnh phúc, trạng thái thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu đã tu tập trong quá khứ. Và điều ấy sẽ mang lại lợi ích, an lạc, hạnh phúc, và điều tốt lành lâu dài cho chính bản thân họ, và cho cả chư Thiên và loài người.


Này Nhất Thiết Dũng, quả thật như vậy: Chỉ cần nghe bài giảng pháp về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, sẽ có được những công đức không thể đo lường, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu phát sinh nơi họ là vô lượng vô biên.


137. Khi ấy, các chúng sinh đang hiện hữu trong pháp hội ấy đã nói với nhau như sau:


“Chắc chắn phải có một người nào đó khéo léo thiện xảo đã thành tựu quả báo của Pháp, mà nhờ vào công đức đã làm và chánh pháp đã tích lũy, sẽ thành tựu được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và trở thành bậc luôn mong muốn mang lại lợi ích và hạnh phúc cho tất cả chúng sinh.”


138. Khi ấy, đức Thế Tôn, thông qua tâm mình, đã nhận biết được các suy nghĩ trong tâm của các chúng sinh ấy, và Ngài đã nói với họ điều này:


Này các thiện nam tử, có những người tin tưởng nơi Chánh pháp, họ sẽ nói rằng: ‘Pháp là có thật, đúng như thật tánh chơn thật như nó đang là.’


Những người ấy sẽ có quả báo lớn, quả lành an lạc và hạnh phúc, và sẽ được hưởng niềm an lạc và hạnh phúc tối thượng của pháp.


139. Còn những chúng sinh bị mê mờ và ngu si, họ sẽ nói như thế này: “Không có pháp, cũng không có bờ bên kia của pháp.”


Đối với những người ấy, quả báo to lớn sẽ là đắng cay, và trong đời sống hiện tại, tâm thức của họ sẽ đọa vào các đường dữ, thường xuyên gánh chịu các trạng thái tiêu cực của thân tâm, bị tâm bực tức, nóng giận, không vui thiêu đốt, bị ngu si nhận chìm trong đám bùn lầy mờ tối, bị lạc trong rừng tà duy thức, muốn thoát cũng không biết cách thoát. Họ phải dùng các lạc thú thế gian để mua vui, tâm họ giống như con khỉ chuyền từ cành này sang cảnh kia, lấy khổ để muốn bỏ khổ, đời sống nhiều trắc trở không được như ý, thường xuyên bị các mong cầu dục lạc trong tâm hành hạ, bị khoái cảm dục lạc nơi thân trói chặt, kéo dắt họ làm các việc bất thiện. Cuộc sống của họ bị lặp đi lặp lại trong một vòng tròn luân hồi, như một thói quen không dứt, đưa họ trôi lăn theo dòng sinh tử từ lúc còn là đồng nhi cho đến khi tóc bạc mặt nhăn, cận kề cái chết.


Họ là những kẻ si mê, sau khi thân hoại mạng chung, họ sẽ phải tái sinh liên tục vào cảnh giới khổ đau.


Đó là kết quả do họ không thấy được pháp, không thấy được chính mình, không sống với tự tánh Trí Tuệ Toàn Giác của chính mình, không thể tu hành duy thức chơn chánh, không biết tất cả cái được thấy trong tâm thức chỉ là cảnh tượng do tự tâm hiện, bị mắc kẹt và chìm sâu trong đó, nên không thể đi trên con đường Thánh Trí do mình tự chứng. Họ bị lạc vào rừng tà duy thức do chính tự tâm mình tạo ra.


140. Do chìm càng sâu trong rừng tà duy thức, nên các cảnh tượng dữ và cảm thọ khổ đau đối với họ càng khốc liệt. Trong 8 kiếp, họ sẽ phải chịu cảm thọ khổ đau ở địa ngục.


Trong 12 kiếp, họ sẽ cảm thọ khổ đau trong loài ngạ quỷ.


Trong 16 kiếp, họ sẽ đọa sinh vào loài A-tu-la, bị tâm bực tức, nóng giận hành hạ.


Trong 9000 kiếp, họ sẽ tái sinh vào loài quỷ giữ hồn bhū-ta do người chết oan và quỷ ăn thịt pi-śā-ca phải hấp thụ tinh khí thịt tươi của chúng sinh để sống.


Trong mười 14.000 kiếp, họ sẽ bị sinh ra không có lưỡi, không thể nếm được mùi vị.


Trong mười 16.000 kiếp, họ sẽ chết lưu ngay trong thai mẹ.


Trong 12.000 kiếp, họ sẽ là những cục thịt dị dạng không phát triển.


Trong 11.000 kiếp, họ sẽ sinh ra bị mù từ lúc mới chào đời.


Đời nào sinh ra, họ cũng đều phải chịu cảm thọ đau khổ.


141. Khi mức độ chìm sâu trong rừng tà duy thức do chính tâm mình tạo ra trở nên nông dần và tương ứng với cõi người, và khi được sinh trong loài người, họ phải chịu cảnh dị tật bẩm sinh, không cách cứu chữa, nơi cha mẹ sẽ khởi lên suy nghĩ như sau:


“Chúng ta đã trải qua nỗi khổ đau khi sinh nở không chút an vui. Đứa con của chúng ta sinh ra cũng không mang lại niềm vui. Chín tháng mang thai trong bụng, chỉ là thời gian đau khổ, phải chịu đựng các cảm thọ nóng lạnh, và trải qua đói khát cùng mọi khổ đau.


Trước mắt, chúng ta phải đối diện rất nhiều nỗi khổ trong hiện tại. Đứa con chúng ta sinh ra, nhưng không làm cha mẹ trong nhà hoan hỷ, vì lòng thương con, phải lo lắng chạy chữa, tài sản trong nhà cũng theo đó mà bay mất. Nhưng thân của đứa con ấy cũng chẳng thể bình phục tốt đẹp.”


Do vậy, nơi cha mẹ sẽ khởi lên tâm tuyệt vọng lớn.


Cũng như vậy, này Nhất Thiết Dũng, những chúng sinh phỉ báng Chánh pháp, là họ đang chối bỏ tự tánh Trí Tuệ Toàn Giác của chính mình, không thấy được Thánh Trí do mình tự chứng, họ đánh mất chính mình. Vì thế, họ là những kẻ rơi vào tuyệt vọng, khổ đau trong hiện tại, và sau khi thân hoại mạng chung, họ sẽ hướng đến các cõi địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ. Vào lúc lâm chung, họ sẽ chìm ngập trong mờ tối, sầu muộn và đau đớn lớn.


142. Này Nhất Thiết Dũng, những chúng sinh nào phát ngôn như sau: “Pháp là có thật, và có bờ bên kia của Pháp”. Do sống với pháp, sống với thực tánh chơn thật như nó đang là, họ thấy được chính mình là chủ, vị chủ nhân thật sự nơi chính mình, biết được tất cả cái được thấy trong tâm thức chỉ là cảnh tượng do tự tâm hiện, họ không bị mắc kẹt, không bị dính mắc, không bị chìm sâu vào đó. Từ đó, họ phát triển tuệ giác bát nhã, có thể thực hành duy thức chơn chánh, và họ có thể đi trên con đường Thánh Trí do mình tự chứng. Các Bờ Bên Kia là Bố Thí, Giữ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định và Tuệ Giác đều trở thành tự nhiên đối với họ, họ sống hoàn toàn với các pháp ấy không bị gò ép. Tâm họ hạnh phúc, an lạc, thưởng ở trong trạng thái thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu.


Nhờ thiện căn ấy, họ sẽ tái sinh vào cõi Bắc Câu-lô-châu (ut-ta-ra-ku-ru-ṣu) trong 20 kiếp.


Trong 25.000 kiếp, họ sẽ tái sinh vào cõi trời Ba Mươi Ba và sống chung với chư Thiên ấy. Sau khi từ bỏ cõi trời Ba Mươi Ba, họ sẽ tái sinh trở lại cõi Bắc Câu-lô-châu.


Họ sẽ không còn tái sinh vào trong bào thai người mẹ.


Họ sẽ thấy được hàng trăm ngàn thế giới. Tất cả những thế giới ấy đều được gọi là Cực Lạc su-khā-va-tī, là nơi họ được thấy tất cả cõi Phật. Sau khi thấy được các cõi ấy, họ sẽ an trú tại đó, và ngay tại đó, họ sẽ thành tựu được Tối Thượng Tỉnh Thức.


143. Thật vậy, này Nhất Thiết Dũng, bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này có năng lực vĩ đại.


Những ai khởi tâm hoan hỷ, tín thuận đối với Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, thì họ sẽ không bao giờ chết do các tai nạn bất thường. Những chúng sinh ấy sẽ hoàn toàn thành tựu giới hạnh thanh tịnh.


144. Này Nhất Thiết Dũng, có những chúng sinh sẽ nói như sau:


“Ngày và đêm, đức Như Lai đang cứu độ vô số chúng sinh. Thế nhưng cho đến hôm nay, thế giới chúng sinh vẫn không chấm dứt.


Nhiều người đang phát nguyện cầu được Tỉnh Thức Toàn Giác. Nhiều người đã sinh vào cõi trời. Nhiều người đã đạt được Niết-bàn tịch tịnh.


Vậy thì, do nhân duyên gì, chúng sinh vẫn không hết?”


II. Phẩm Các Câu Hỏi Của Bồ Tát Di Lặc 

Maitreyaparipṛcchā


145. Lúc bấy giờ, danh tiếng của Pháp hội giảng về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp của đức Thế Tôn được tổ chức tại núi Linh Thứu Gri-đhra-ku-ta trong thành Vương Xá ngày càng lan rộng, đã có rất nhiều chúng sinh tham gia nghe pháp đều chứng được Tỉnh Thức Tối Thượng. Có người trong lúc nghe pháp, tâm tăng thượng đến mức chứng được các quả Thánh Thanh Văn, có người khi nghe pháp chứng được Độc Giác Phật, có người phát nguyện Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có người dự vào hàng Bồ Tát từ địa thứ nhất đến địa thứ mười, có người chứng được sự nhẫn đối với các pháp không còn sinh khởi. Số lượng chúng sinh phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đạt được trạng thái hạnh phúc, an lạc và rất dễ chịu khi nghe pháp là vô lượng vô biên.


Khi ấy, có nhiều nhà luận thuyết, du sĩ ngoại đạo, ẩn sĩ du hành, và các giáo sĩ tu hạnh loã thể ni-gran-thā, đều là những người lớn tuổi hơn đức Thế Tôn, có những người cao niên, trưởng thượng, đã già khởi lên ý nghĩ như sau:


“Sa-môn Gau-ta-ma là một đứa trẻ, còn nhỏ tuổi, mà dám ra thuyết pháp giải thoát Niết Bàn, tự nhận mình là Phật, là một Bậc Giác Ngộ Toàn Giác. Chúng ta đều là những người lớn tuổi, cao niên, đã từng trải qua các cung bậc của cuộc đời, có kinh nghiệm trải đời rất lớn, mà còn chưa dám tuyên thuyết như vậy. Nay chúng ta sẽ đến để tranh luận với Sa-môn Gau-ta-ma.”


Lúc bấy giờ, có 94 vị Bà-la-môn, là những nhà luận thuyết ngoại đạo hàng đầu, thuộc hàng cao niên trưởng thượng nhất, và các du sĩ hành đạo, và hàng trăm vị đạo sĩ loả thể ni-gran-tha đã cùng đến đại thành Vương Xá.


Vào lúc ấy, đức Thế Tôn mỉm cười.


146. Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc Đại Bồ Tát, liền đứng dậy khỏi tòa ngồi, đắp thượng y lên vai bên phải, quỳ gối phải chạm đất, chắp tay đảnh lễ hướng về đức Thế Tôn, và thưa đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, nhân là gì, duyên là gì khiến Ngài mỉm cười như vậy? Vì đức Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, không bao giờ mỉm cười một cách vô cớ hay không có nhân duyên.


147. Đức Thế Tôn nói rằng:


Hãy lắng nghe, này thiện nam tử, hôm nay tại đại thành Vương Xá, sẽ có một đại hội rất lớn.


Bồ Tát Di Lặc thưa:


Thưa đức Thế Tôn, ai sẽ đến nơi đây? Là chư Thiên, hay loài Rồng, Dạ-xoa, loài Người, hay loài Phi nhân?


Đức Thế Tôn nói:


Tất cả những vị ấy, này Di Lặc, hôm nay sẽ đến đây, gồm có chư Thiên, Long thần, Dạ-xoa, loài Người và Phi nhân, và có 84.000 vị Bà-la-môn, trong số đó có 94 vị Bà-la-môn là những nhà luận thuyết hàng đầu cũng sẽ đến nơi đây.


148. Có 900.000 các vị ngoại đạo, du sĩ hành đạo, và đạo sĩ lõa thể ni-gran-thā cũng sẽ đến nơi đây.


Họ sẽ đến tranh luận với ta. Và để chấm dứt mọi cuộc tranh luận của họ, ta sẽ thuyết pháp. Sau khi nghe pháp ta thuyết, tất cả các vị Bà-la-môn ấy sẽ phát khởi tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


Sẽ có 900.000 các vị ngoại đạo, du sĩ hành đạo, đạo sĩ lõa thể  ni-gran-thā sẽ chứng được quả Nhập Lưu Tu Đà Hoàn.


149. Sẽ có 180 tỷ Long vương sẽ đến. Những vị ấy sẽ nghe pháp từ nơi ta. Sau khi nghe pháp, tất cả những vị ấy sẽ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


150. Sẽ có 600 tỷ chư Thiên là các vị trời của cõi Sắc giới, cư ngụ nơi Tịnh cư thiên śud-dhā-vā-sa sẽ đến.


Với 320 tỷ quyến thuộc, Ma Vương Ba Tuần Pā-pī-yā cùng quyến thuộc cũng sẽ đến.


120 tỷ vua A-tu-la sẽ đến.


Năm trăm vị vua cùng với quyến thuộc cũng sẽ đến để nghe pháp.


Tất cả những vị ấy, sau khi nghe pháp từ nơi ta, sẽ phát tâm hướng đến quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


151. Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc Đại Bồ Tát, đã đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, rồi nhiễu quanh Ngài ba vòng theo chiều bên phải, sau đó liền biết mất tại chỗ ấy.


III. Phẩm Các Câu Hỏi Của Bồ Tát Nhất Thiết Dũng - Lần 2

Sarvaśūraparipṛcchā (2)


152. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y lên vai bên phải, quỳ gối phải chạm đất, hướng về đức Thế Tôn, chắp tay đảnh lễ, rồi thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, danh hiệu của năm trăm vị vua ấy là gì?


153. Đức Thế Tôn đáp:


Hãy lắng nghe, này Nhất Thiết Dũng.


Có vị vua tên là Na-đa (Hỷ), vua Su-nan-đa (Thiện Hỷ), vua U-pa-nan-đa (Cận Hỷ), vua Ji-nar-ṣa-bha (Thắng Thượng), vua Brah-ma-se-na (Phạm Quân), vua Brah-ma-gho-ṣa (Phạm Âm), vua Su-dar-śa-na (Thiện Kiến), vua Ja-ya-se-na (Thắng Quân), vua Nan-đa-se-na (Hỷ Quân), vua Bim-bi-sā-ra (Tần Bà Sa La), vua Pra-se-na-jin (Ba Tư Nặc - Quang Thắng), và vua Vi-rū-ḍha-ka (Lưu Ly). Đó là những vị đứng đầu trong số năm trăm vị vua. Mỗi vị vua đều có quyến thuộc gồm 20.000 người đi theo.


Tất cả những vị ấy đều đã khởi hành trên con đường Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chỉ ngoại trừ vua Lưu Ly.


154. Từ phương Đông, có 300 tỷ Bồ Tát đến. Từ phương Nam, có 500 tỷ Bồ Tát đến. Từ phương Tây, có 600 tỷ Bồ Tát đến. Từ phương Bắc, có 800 tỷ Bồ Tát đến. Từ phương dưới, có 900 tỷ Bồ Tát đến. Từ phương trên, có 1000 tỷ Bồ Tát đến. Tất cả những vị ấy đều an trụ trong tầng địa thứ mười của Bồ Tát.


155. Bấy giờ, tất cả những vị Bồ Tát ấy, hướng về đại thành Vương Xá, hướng đến núi Linh Thứu, và hướng đến đức Thế Tôn, đến gần để chiêm ngưỡng và đảnh lễ đức Thế Tôn.


Tất cả những vị Bồ Tát ấy đều đã khởi hành trên con đường Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


156. Khi ấy, đức Thế Tôn gọi Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, và nói như sau: 


Này Nhất Thiết Dũng, hãy đi đến tất cả thế giới trong mười phương, và hãy tuyên bố cho các vị Bồ Tát như sau:


“Hôm nay, đức Như Lai đang thuyết pháp tại đại thành Vương Xá. Do đó, tất cả các vị đang an trụ trong các thế giới ở mười phương, hãy chắp tay đảnh lễ.”


Sau khi ông nói như vậy xong, chỉ trong chốc lát, hãy nhanh quay về đây để nghe pháp.


157. Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, nhiễu quanh đức Thế Tôn ba vòng, rồi bằng thần lực liền biến mất tại chỗ ấy.


158. Khi ấy, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, sau khi đã đi đến các thế giới trong mười phương, đã thông báo cho các vị Bồ Tát như sau:


“Hôm nay, thưa các bậc tôn quý, đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, đang thuyết pháp cho các chúng sinh trong thế giới sa-hā, tại đại thành Vương Xá.


Xin chư vị hãy tán thán đúng lúc. Như vậy, ngay hôm nay, chư vị sẽ được lợi ích lớn, vì hạnh phúc và vì an lạc cho chư vị.”


159. Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, sau khi đã đi đến các thế giới trong mười phương, lễ bái và cúng dường tất cả các đức Phật, liền bố cáo cho các vị Bồ Tát.


Ví như có một người lực lưỡng, có thể kết hợp toàn bộ ánh sáng lại, ngay lúc ấy, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát liền hiện ra, đến đại thành Vương Xá, đến chỗ đức Thế Tôn, và đứng trước mặt đức Thế Tôn.


Và tại nơi ấy, toàn thể các vị Bà-la-môn, các nhà luận thuyết ngoại đạo, du sĩ hành đạo, và đạo sĩ lõa thể ni-gran-thā đều đã tụ hội. Rất nhiều chư Thiên, Long thần, loài người và phi nhân cũng hiện diện, cùng với năm trăm vị vua và quyến thuộc của họ, đều đã tụ hội. 330 tỷ Ma Vương Ba Tuần Pā-pī-ya cùng với quyến thuộc cũng đã tụ hội.


160. Lúc bấy giờ, đại thành Vương Xá rung chuyển mạnh. Ngay sau đó, tại các thế giới trong mười phương, có mưa rơi xuống loại bột trầm hương thiên giới, và còn mưa xuống hoa trời vi diệu.


Ngay trên đảnh đầu của đức Thế Tôn, một tòa lầu báu bằng hoa của thiên giới liền xuất hiện và an trụ.


Vào thời điểm ấy, ngay trước mặt đức Như Lai, Thiên Chủ Sak-ra, vua của chư Thiên, đã giáng sấm sét xuống bằng chuỳ kim cang của mình để làm hoảng sợ, kinh hoàng, lông tóc dựng ngược đối với những vị Bà-la-môn, các nhà luận thuyết ngoại đạo, du sĩ hành đạo, và đạo sĩ lõa thể ni-gran-thā.


161. Bấy giờ, vào lúc ấy, từ bốn phương, bốn cơn gió lớn nổi dậy và thổi mạnh. Những cơn gió ấy thổi bay toàn bộ rác rưởi, bụi đất, và tro bụi trong đại thành Vương Xá ra khỏi thành.


Trong mười phương thế giới, mưa nước thơm vi diệu rơi xuống.


Từ mười phương thế giới, mưa các loại hoa sen xanh ut-pa-la, sen hồng pad-ma, hoa súng ku-mu-đa, và hoa sen trắng lớn puṇ-đa-rī-ka rơi xuống. Các đóa hoa ấy liền tụ lại trên đảnh đầu của các chúng sinh như những tán hoa.


Và ngay trên đảnh đầu của đức Như Lai, giữa hư không, có 84.000 tòa lâu các báu bằng hoa của thiên giới đã hiện ra và an trụ.


Trong 84.000 tòa lâu các bằng hoa ấy, có 84.000 tòa ngồi, bằng bảy loại báu, đã xuất hiện và được thiết lập. Trên mỗi tòa ngồi ấy, đều có một đức Như Lai đang ngồi và thuyết pháp.


Ngay lúc ấy, toàn thể ba ngàn đại thiên thế giới liền chấn động bằng sáu loại rung chuyển lớn.


162. Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, chắp tay đảnh lễ hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, nguyên nhân là gì, duyên cớ là gì, khiến các loại thần biến tối thượng như vậy được hiển bày tại đại thành Vương Xá?


Đức Thế Tôn nói rằng:


Lấy một ví dụ, có một người tính tình xao động, hấp tấp, và đầy ngã mạn, chấp ngã, tự cao, khinh người, thường cho rằng cái này là tôi, cái này là sở hữu của tôi. Người ấy lại còn nghèo khổ. Một hôm, vua đi tuần hành, lỡ tay làm trúng đầu người ấy. Bấy giờ người ấy, do ngã mạn, liền đến cửa cung vua và muốn dùng sức mạnh xông vào hoàng cung.


Khi ấy, các vị đại thần và quan giữ cửa bắt giữ người đó, và đánh đập bằng nhiều cách.


163. Vào lúc ấy, vị vua đó nghe được sự việc rằng: Người nghèo kia đang muốn xông vào nội cung bằng vũ lực.


Sau khi nghe như thế, vị vua ấy liền nghĩ rằng: “Chắc chắn, kẻ này muốn sát hại ta.”


Khi đó, nhà vua nổi giận, và nói với các cận thần như sau:


“Hỡi các khanh, hãy dẫn kẻ này vào khe núi và giết đi.


Hãy đày toàn bộ quyến thuộc của hắn – cha mẹ, con trai, con gái, tớ trai, tớ gái và người làm công xuống làm tầng lớp nô lệ, và phải lao động khổ sai.”


Rồi tất cả họ đều bị giết hại. Và toàn thể bà con thân tộc của người ấy liền rơi vào khổ đau và sầu não tột cùng, và phải chịu cảnh lao động khổ sai.


164. Cũng giống như vậy, này Nhất Thiết Dũng, đức Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, vì chúng sinh mà thuyết pháp, đã làm đụng chạm đến lợi ích của những người phàm phu ngu si, trí tuệ non nớt.


Giống như kẻ kia do tâm ngã mạn mà xông vào cung vua, thì cũng vậy, những người phàm phu ngu si, chấp lấy hình sắc, màu da, tướng trạng, giới tính và dáng vóc bên ngoài của đức Như Lai, rồi lầm nhận: “Đây là thân của Như Lai”.


165. Tại nơi ấy, những người phàm phu ngu si, trí tuệ non nớt ấy, sau khi đã nghe nhiều pháp, liền rơi vào tâm ngã mạn, tự cao, khinh người, chấp chặt cái này là tôi, cái này là sở hữu của tôi. Họ thốt ra đủ loại lời lẽ loạn ngôn. Những chúng sinh ấy, bị lấn át bởi tâm ngã mạn và chấp ngã, tự thân họ chẳng chịu lắng nghe pháp, cũng không truyền bá pháp.


Nếu có ai tuyên đọc cho họ nghe một bài kinh, một bài kệ, hoặc một ví dụ ngắn gọn, thì họ không tiếp nhận, cũng chẳng để tai nghe. Họ nói rằng: “Chúng tôi tự biết lấy.”


Vì sao vậy? 


Bởi do ngã mạn, chấp chặt vào cái này là tôi, cái này là sở hữu của tôi, và chính nhờ học nhiều mà họ lại rơi vào phóng dật.


166. Những ai lại cùng chung hội hợp, kết thân với những người phàm phu ngu si, trí tuệ non nớt ấy, thì họ sẽ không thể nghe được lời nói nào đi cùng với pháp có tự tánh chơn thật như nó đang là.


Những người ấy, vì học rộng mà trở nên phóng dật. Những hạng người như thế sẽ tự ý lập dựng các tác phẩm, luận thuyết, sách vở, thơ văn riêng của mình, và kể cả phát tán các bộ luận thuyết của chính họ. Họ khiến cho tất cả thế gian và chính bản thân họ đều bị mê lầm.


Họ tiêu dùng một cách lãng phí vô số của cải của quốc gia. Sau khi đã thọ hưởng, họ lại không hồi hướng chơn chánh.


Vào lúc lâm chung, những người ấy sẽ rơi vào nỗi kinh hoàng cùng cực.


167. Những người đã từng học luận thuyết, và học trò đệ tử sẽ nói với người ấy rằng:


“Rất nhiều người trong chúng tôi đã được thầy dạy dỗ về kỹ nghệ và tri thức, vậy tại sao thầy lại không thể cứu lấy chính bản thân mình?”


Người kia liền đáp lại họ rằng: 


“Hỡi các bạn hiền, giờ đây, tôi không còn có thể cứu lấy bản thân mình nữa.”


168. Nghe xong những lời ấy của người đó, những chúng sinh kia sẽ than khóc đủ mọi cách.


Giống như trong ví dụ trước, vì hành vi của một cá nhân, mà nhiều người thân quyến, kể cả cha mẹ, con trai, con gái, tớ trai, tớ gái và người làm công đã bị giết chết, hoặc bị giáng làm nô lệ, phải lao động khổ sai một cách oan uổng, phải chịu cảnh đau khổ cùng cực, chỉ do nhân quả từ nghiệp riêng của chính họ.


Cũng như vậy, vào lúc lâm chung, những chúng sinh học theo luận thuyết của người phàm phu ngu si, trí tuệ non nớt kia, tự thấy mình đang rơi vào địa ngục, súc sinh và các đường dữ, cùng với tiếng than khóc thống khổ.


Chỉ vì do ác tri thức, ta nói điều này với các ông – những vị Bà-la-môn, các nhà luận thuyết ngoại đạo, du sĩ hành đạo, và đạo sĩ lõa thể ni-gran-thā rằng:


Đừng để mình rơi vào phóng dật.


Ví như một con chim non chưa mọc đủ lông cánh, không thể tự bay lên trời, cũng không thể đi đến cõi trời, cũng như vậy, các ông, những người đang mắc kẹt trong tâm ngã mạn và chấp ngã, cho rằng cái này là tôi, cái này là sở hữu của tôi, thì không thể nào chứng được Niết-bàn tịch tĩnh. Bởi vì nơi các ông, chẳng có thần thông như vậy tồn tại.


Vì sao vậy? 


Vì bởi sự vận hành của nghiệp, các ông sinh ra chẳng khác nào loài gà. Không bao lâu nữa, thân này vốn có bản chất là pháp hư hoại sẽ kết thúc bằng cái chết.


Đến lúc lâm chung, sẽ chỉ có sự trống rỗng không hỷ lạc, không còn cảm giác lạc thọ, và chỉ còn lại đau đớn tiếc nuối, ân hận và lo sợ mà thôi.


169. Chẳng lẽ thân thể này mà chúng ta đang gìn giữ, lại khiến chúng ta chẳng bao giờ được hưởng an lạc của cõi trời, cũng chẳng hưởng được hạnh phúc của loài người, cũng chẳng thể đạt đến cảnh giới Niết-bàn tịch tĩnh hay sao?


Quả thật là vô ích khi chúng ta sinh ra với thân thể như vậy.


Đường đi nào dành cho chúng ta? Chỗ nào để chúng ta nương tựa vào?


Chúng ta sẽ tái sinh nơi nào? Và chỗ nào sẽ là nơi đoạn tận?


170. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại một lần nữa ân cần chỉ dạy bảo các vị Bà-la-môn, các nhà luận thuyết ngoại đạo, du sĩ hành đạo, và đạo sĩ lõa thể ni-gran-thā rằng:


Này quý vị, chớ để các ông trở thành những người tuyệt vọng giữa cõi Diêm-phù-đề tràn đầy báu vật này. Đừng để các ông bị đẩy ra ngoài châu báu Chánh Pháp!


Hãy đến mà thưa hỏi Như Lai, này quý vị, nếu thật sự các ông còn mong muốn đặt câu hỏi.


Ta sẽ trả lời viên mãn tất cả mọi tâm nguyện của các ông.


171. Bấy giờ, toàn thể các vị Bà-la-môn, các nhà luận thuyết ngoại đạo, du sĩ hành đạo, và đạo sĩ lõa thể ni-gran-thā, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y lên một bên vai, chắp tay cung kính, họ chất vấn đức Thế Tôn như sau:


Này Sa-môn Gau-ta-ma, đức Như Lai đã giải thoát vô số chúng sinh khỏi vòng luân hồi, ngày đêm không ngơi nghỉ. Thế nhưng, không có sự thiếu hụt hay đầy đủ nào được thấy nơi bản thể của chúng sinh.


Vậy, này Sa-môn Gau-ta-ma, đâu là nguyên nhân, đâu là duyên khởi khiến cho những chúng sinh đồng thể như nhau, lại có kẻ biểu hiện sự sinh diệt, có kẻ thì không?


Phẩm Các câu hỏi của Bồ Tát Nhất Thiết Dũng trong Bài giảng pháp lớn về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp đến đây là hết.





IV. Phẩm Các Câu Hỏi Của Bồ Tát Dược Quân

Bhaiṣajyasenaparipṛcchā


172. Khi ấy, đức Thế Tôn nói với Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát rằng:


Các ngoại đạo đang tập hợp chuẩn bị vũ trang cho một đại pháp trận. Câu hỏi ấy, vốn dĩ mong muốn làm khó được ta, một người trẻ tuổi hơn họ, nhưng ta thấy, những câu hỏi ấy thực chất là vì mục đích để dẹp trừ các đại vọng kiến, tà kiến và tâm hối hận, sợ hãi của họ, và vì để đốt lên ngọn lửa lớn của Chánh Pháp. Họ đến để nêu ra những câu hỏi trọng đại như vậy với ta.


Này thiện nam tử, hãy lắng nghe: 


Ở nơi đây, cõi đất, cõi nước, cõi lửa, cõi gió là vô tận vô biên; so với các cõi ấy, cõi chúng sinh còn vô biên hơn nữa.


Và có những chúng sinh, vì lợi ích của muôn loài, biểu hiện sự sinh và diệt.


Về sau, vào thời sau chót, sẽ có những chúng sinh nhỏ tuổi hoặc lớn tuổi, sẽ thực hành sự sinh và diệt. 


Này Dược Quân, có những chúng sinh lớn tuổi nhưng giống như trẻ nhỏ, không biết gì cả.


173. Lấy một ví dụ, này Dược Quân, có một người gội đầu, rồi khoác lên những y phục mới, và bước ra khỏi nhà.


Khi ấy, các chúng sinh khác sẽ khen ngợi: “Y phục mới của ông được khoác đẹp quá!”


Còn lại có một người khác, cũng gội đầu, nhưng lại khoác y phục cũ. Những y phục ấy bị sờn rách, rũ rượi, và không còn đẹp nữa. Dù người ấy có đầu tóc sạch sẽ, nhưng y phục lại không hợp.


Cũng vậy, này Dược Quân, có những chúng sinh lớn tuổi, cao niên, đã già, nhưng không khiến cho cõi Diêm-phù-đề trở nên tốt đẹp.


Trái lại, có những chúng sinh nhỏ tuổi lại có thể hiển bày sự sinh diệt, làm cho thế gian này trở nên tươi sáng,và  được giải thoát.


174. Khi ấy, toàn thể các vị Bà-la-môn, các nhà luận thuyết ngoại đạo, du sĩ hành đạo, và đạo sĩ lõa thể ni-gran-thā, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, rồi chất vấn đức Thế Tôn như sau:


Này Sa-môn Gau-ta-ma, ai trong chúng tôi đây là người già? Ai là người trẻ?


Đức Thế Tôn đáp: 


Chính các ông là những người già, vì đã nhiều lần chứng kiến và trải qua nỗi khổ trong các cõi địa ngục, súc sinh, và ngạ quỷ. Ấy thế mà cho đến hôm nay, các ông vẫn chưa đạt được sự chán lìa, và nhàm chán những nổi khổ và con đường tái sanh vào các cõi đó.


175. Khi ấy, sau khi nghe đức Thế Tôn nói như vậy, họ tự xét bản thân mình, từ lúc còn là đồng nhi cho đến khi tuổi già, suốt quãng thời gian đó, họ đã phải chứng kiến và trải qua rất nhiều đau khổ, cay đắng của cuộc đời, có lúc phải trải qua những khổ đau khốc liệt, xoay lại thấy tâm trí mình như một màn tối bao quanh, không có ánh sáng, đủ thứ suy nghĩ tưởng tượng rối loạn trong đó, dù có học rộng, tài cao, nhưng không một lúc nào thực sự bình yên, các cảm thọ khó chịu, nóng giận, không thoải mái, không như ý thường xuyên chiếm lấy thân tâm, chưa một lần cảm nhận được hạnh phúc của loài người, sự an lạc của cõi trời. Họ thấy cuộc sống của mình rõ ràng đang lặp đi lặp lại mỗi ngày như trong một vòng lặp luân hồi, và dần đưa họ đến cái chết. Khi ấy, lòng họ hoàn toàn tôn trọng và tin tưởng vào lời dạy của đức Thế Tôn.


Lúc bấy giờ, toàn thể các vị Bà-la-môn, các nhà luận thuyết ngoại đạo, du sĩ hành đạo, và đạo sĩ lõa thể ni-gran-thā, cùng với các vị Long Vương, đồng thanh thưa với đức Thế Tôn rằng:


“Thưa đức Thế Tôn, chúng con không còn muốn chịu đựng các khổ đau trong vòng luân hồi nữa.”


Rồi chính các vị Bà-la-môn, các nhà luận thuyết ngoại đạo, du sĩ hành đạo, và đạo sĩ lõa thể ni-gran-thā lớn tuổi ấy, do tâm trí vẫn còn mờ tối, lại nói rằng:


“Không hề có chúng sinh trẻ tuổi nào có thể trực tiếp chứng ngộ được chân lý Pháp tánh, chỉ ngoại trừ Sa-môn Gau-ta-ma.”


176. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Vương Đại Bồ Tát thưa với đức Thế Tôn rằng:


“Xin Ngài xem, thưa đức Thế Tôn, những chúng sinh này thật khó thoát khỏi tà kiến, thật khó có thể chuyển hóa và giải thoát đến nhường nào!”


Đức Thế Tôn nói: 


Này Dược Quân, hãy lắng nghe. Ngay lúc này, Như Lai sẽ hiển thị cho toàn thế giới thấy rõ tận mắt.


177. Khi ấy, có 94.000 thiếu niên trẻ tuổi đứng trước mặt đức Như Lai, nhưng họ không đảnh lễ, không thưa hỏi, cũng không trò chuyện với đức Như Lai, mà chỉ im lặng chấp nhận.


Bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, nguyên nhân là gì? Duyên là gì khiến những thiếu niên trẻ tuổi ấy không thưa hỏi, không đối thoại, không đảnh lễ, và cũng chẳng nói với đức Thế Tôn điều gì?


Đức Thế Tôn đáp rằng: 


Này Dược Quân, hãy lắng nghe. 


Những thiếu niên trẻ tuổi ấy đã thường xuyên theo ta nghe pháp từ lâu, đã trực tiếp chứng ngộ được chân lý Pháp tánh, nhưng hôm nay lại nghe được lời tuyên bố của các vị Bà-la-môn, các nhà luận thuyết ngoại đạo, du sĩ hành đạo, và đạo sĩ lõa thể ni-gran-thā lớn tuổi nói rằng: “Không hề có chúng sinh trẻ tuổi nào có thể trực tiếp chứng ngộ được chân lý Pháp tánh.”


Nên họ tự suy nghĩ rằng: “Chúng con đã trực tiếp chứng ngộ được chân lý Pháp tánh, mặc dù chúng con chỉ mới là những thiếu niên trẻ tuổi. Nhưng sao hôm nay các vị Bà-la-môn lớn tuổi lại nói như vậy?”


Do họ là những thiếu niên trẻ tuổi, mặc dù thấy được lời tuyên bố của các vị Bà-la-môn lớn tuổi là không đúng với họ, nhưng họ không phản bác, đảnh lễ, không thưa hỏi, cũng không trò chuyện với Như Lai, mà chỉ im lặng chấp nhận.


Bởi vì, này Dược Quân, họ là những thiếu niên trẻ tuổi, ông nên biết rõ họ như vậy.


Khi được đức Như Lai nói đến, các thiếu niên trẻ tuổi ấy bắt đầu thưa với đức Thế Tôn rằng: 


Xin Ngài xem, thưa đức Thế Tôn, chúng con là những thiếu niên trẻ tuổi. Thưa đức Thiện Thệ, chúng con đúng thật là những thiếu niên trẻ tuổi.


Đức Thế Tôn nói rằng: 


Này các con, các con đã nghe được lời tuyên bố của các vị Bà-la-môn, các nhà luận thuyết ngoại đạo, du sĩ hành đạo, và đạo sĩ lõa thể ni-gran-thā lớn tuổi rồi. Các con hãy vì những người lớn tuổi ấy, giờ đây, hãy làm cho thế gian được tận mắt thấy rõ: Từ thân mình, hãy biểu hiện ra thước đo tiêu chuẩn cho thế gian được chiêm ngưỡng.


178. Vào lúc ấy, 94.000 thiếu niên trẻ tuổi ấy, nhập vào chánh định, liền hiện thân nơi hư không, và chứng đắc tầng địa thứ mười của Bồ Tát.


Bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thật là may mắn và khó có được, thưa đức Thế Tôn, khi có những chúng sinh như thế, là những người phát khởi tinh tấn để hướng đến sự đoạn tận và dứt sạch vòng luân hồi.


Thưa đức Thế Tôn, ngay hôm nay những chúng sinh ấy đã xuất hiện. Ngay hôm nay, những chúng sinh ấy đã được giải thoát. Ngay hôm nay, tất cả đều được thấy là đã an trụ vào tầng địa thứ mười của Bồ Tát.


179. Lúc bấy giờ, toàn thể các vị Bà-la-môn, các nhà luận thuyết ngoại đạo, du sĩ hành đạo, và đạo sĩ lõa thể ni-gran-thā lớn tuổi đều nhận thấy sai lầm với lời tuyên bố trước kia của mình, và suy nghĩ như sau: 


“Ôi, kỳ diệu thay! Các thiếu niên trẻ tuổi như vậy mà còn có thể trực tiếp chứng ngộ được chân lý Pháp tánh, còn có thể thị hiện được thần thông bay lên hư không, còn có thể chứng được tầng địa thứ mười của Bồ Tát.


Còn chúng ta, ôi, thật đáng xấu hổ thay! Chỉ ngoại trừ lớn tuổi đã già, tóc bạc mặt nhăn, thân thể già yếu, với những giáo lý rỗng tuếch, ngoài ra không thể làm được việc gì nữa. Đối mặt với chúng ta, chỉ là chờ thời để dẫn đến cái chết. Ôi, thật khổ thay! Ôi thật khổ đau lắm thay!


Các thiếu niên trẻ tuổi theo Như Lai nghe pháp mà còn có thần biến lớn như vậy, huống chi là đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác. Chúng ta hãy hoàn toàn quy mạng và theo học với đức Như Lai.”


Khi ấy, tất cả bọn họ cùng với các Long Vương, và cả Ma vương Ba Tuần Pā-pī-yā cùng quyến thuộc, đều đến gần đức Như Lai để cầu được mở sáng con mắt tuệ.


Tất cả họ đều thưa với đức Thế Tôn rằng: 


“Thưa đức Thế Tôn, chúng con đã đến gần đức Như Lai để được khai mở tuệ nhãn.


Chúng con, sau khi nghe bài giảng pháp này và thấy được những hiện tượng thần biến, chúng con đã phát khởi lòng tin thanh tịnh đối với đức Phật và Chánh Pháp.


Do vậy, thưa đức Thế Tôn, tất cả chúng con đều cầu mong được đạt đến an lạc của bậc Toàn Giác, như đức Thế Tôn hiện có. Và cầu mong chúng con đều sẽ trở thành những đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác như vậy nơi thế gian.”


180. Rồi ngay khi ấy, từ nơi đức Thế Tôn, lời tuyên bố này được phát ra:


“Đúng như vậy, này các vị có gương mặt hiền thiện, quả thật như vậy, chính các ông đã đến gần với Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


Chính do bởi các ông, đã nghe bài giảng pháp về kinh Tích Luỹ Chánh Pháp này, nên đã phát khởi tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


Do bởi căn lành ấy, các ông, này những người có khuôn mặt hiền thiện, sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong một thời gian không lâu.”


181. Khi nghe được lời thọ ký ấy từ đức Thế Tôn, ngay lúc ấy, toàn thể 84.000 vị Bà-la-môn, tâm hoàn toàn tịch lặng, đều đắc được sự Nhẫn đối với các pháp không còn sinh khởi. Tất cả đều trở thành các vị Bồ Tát an trụ vào tầng địa thứ mười.


Tất cả các vị Bồ Tát ấy, liền bay lên không trung với khoảng cách bằng bảy cây thốt nốt ta-la, rồi hoá hiện các lâu các bằng bảy báu dâng cúng đức Như Lai.


Tất cả đều vận dụng các loại biến hóa, năng lực gia trì, và thần thông, để tạo ra các hạnh nguyện trang nghiêm. Ngay khi ấy, tất cả họ trụ trên khoảng hư không nơi đảnh đầu của đức Thế Tôn, rồi rải xuống các loại hoa khác nhau để cúng dường đức Thế Tôn.


Trong tâm trí họ chỉ còn nghĩ đến đức Như Lai, đồng thời trong tự thân mình khởi lên nhận biết Toàn Giác của Phật.


Có 900.000 các vị ngoại đạo, du sĩ hành đạo, đạo sĩ lõa thể ni-gran-thā, mắt tuệ giác khai mở, thấy được dòng pháp, chứng được quả Nhập Lưu Tu Đà Hoàn.


Khi ấy, có vô số hàng trăm ngàn tỷ tỷ thiên tử rải các loại hoa trời cúng dường đức Như Lai.


182. Rồi những vị thiên tử ấy đồng nói lên lời này: 


“Sa-môn Gau-ta-ma thật là người đại phước. Ngài là bậc Lãnh đạo thế gian, người có cõi Phật rộng lớn, đã đạt được năng lực rất lớn từ Định lực sa-mā-dhi. Ngài là bậc Giác Ngộ, và là người hiểu rõ điều mà hàng hữu tình mong cầu trí tuệ.


Ngài là bậc có thể dùng phương tiện thiện xảo, theo trình tự, mà cứu độ các loài chúng sinh ra khỏi luân hồi. Chỉ với một lời nói khéo léo, mà biết bao chúng sinh đã được giải thoát khỏi luân hồi.”


183. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y bên vai phải, quỳ gối phải chạm đất, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, rồi hỏi rằng:


Thưa đức Thế Tôn, nhân là gì, duyên là gì khiến cho các vị Thiên tử này lại nói ra lời như vậy, và họ thực hiện rất nhiều thành tựu thần thông, đã tán thán đức Như Lai bằng vô số lời ca ngợi về công đức và giới hạnh?


Đức Thế Tôn trả lời rằng: 


Này thiện nam tử, hãy lắng nghe. Thật ra họ không phải đang ca ngợi Ta. Mà họ đang tán thán chính bản thân của họ. Họ sẽ đặt tự thân họ trên tòa của bậc Pháp Vương. Họ sẽ an trụ tự thân họ trên tòa pháp tối thượng. Từ chính tự thân của họ, họ sẽ phát ra tia sáng của Chánh Pháp. Họ sẽ trở thành những người được tất cả chư Phật nhiếp thọ, để thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và sau khi chứng ngộ, họ sẽ thuyết pháp.


184. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát thưa với đức Thế Tôn rằng:


Xin Ngài hãy xem, thưa đức Thế Tôn, xin Ngài hãy xem, thưa đức Thiện Thệ, có vô số chúng sinh được giải thoát cả ngày và đêm, mà cho đến nay, sự tận cùng của các chúng sinh vẫn chưa hiện hữu.


Đức Thế Tôn dạy: 


Lành thay! Lành thay! Này Dược Quân, ông đã nghĩ rằng nên thưa hỏi đức Như Lai về nghĩa lý rất sâu này.


Hãy lắng nghe, này Dược Quân. Lấy một ví dụ, có một người giàu có, rất giàu có, có của cải lớn, có vô số tài sản. Người ấy có đầy đủ các kho báu chứa tiền của và lương thực, có nhiều tôi trai tớ gái, nhân công, và rất nhiều tài sản khác, như: lúa mạch, lúa mì, lúa thường, mè, đậu đen, đậu xanh, v.v…


Người ấy vào mùa xuân, gieo trồng tất cả những loại ngũ cốc và lương thực ấy. Rồi sau một thời gian, tất cả các loại lương thực ngũ cốc ấy sẽ chín mùi. Khi biết rằng chúng đã chín, người ấy liền thu hoạch và đem vào trong nhà. Người ấy phân loại các loại lương thực và ngũ cốc ấy, theo từng loại riêng biệt, rồi cất vào kho để sau đó sử dụng, và đến mùa xuân tiếp theo, lại tiếp tục gieo trồng các hạt giống ấy.


185. Cũng vậy, này Dược Quân, những chúng sinh này, đã từng tạo các nghiệp lành trong quá khứ, và sau đó, khi các nghiệp lành ấy đã hết, họ lại tiếp tục tìm đến các ruộng phước lành, để họ gieo trồng các căn lành. Sau khi đã gieo trồng căn lành ấy, họ thực hành các thiện pháp tại nơi đó, và thành tựu. Do đạt được sự thành tựu trong tu tập, họ khiến tất cả các pháp tăng trưởng. Sau khi làm tăng trưởng tất cả các pháp ấy, họ khởi lên niềm hân hoan và hoan hỷ. 


Nhờ tâm hoan hỷ ấy, này Dược Quân, mà trong vô lượng hàng trăm ngàn tỷ kiếp, họ không rơi vào chỗ bị huỷ hoại.


Cũng như vậy, này Dược Quân, một vị Bồ Tát mới phát tâm chưa từng bao giờ là người thuộc về pháp có tính hoại diệt. Vị ấy thấu hiểu tất cả các pháp một cách cô đọng ngắn gọn.


186. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng lại hỏi: 


Thưa đức Thế Tôn, Bồ Tát mới phát tâm thấy chiêm bao như thế nào?


Đức Thế Tôn nói rằng: 


Này Dược Quân, vị Bồ Tát mới phát tâm thường thấy nhiều điều đáng sợ trong giấc mộng.


Vì sao vậy? 


Bởi khi vị ấy thấy điều đáng sợ trong giấc mộng, thì ngay khi ấy, tất cả các nghiệp ác đều được hoàn toàn thanh tịnh hóa. Không thể nào, này Dược Quân, một chúng sinh còn nghiệp ác lại có thể trừ được nỗi đau khổ dữ dội. Và những gì được thấy trong giấc mộng, nếu thấy là ác, thì không phải là nỗi sợ thật sự của người ấy.


187. Bồ Tát Dược Quân thưa rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, những gì là các cảnh đáng sợ mà vị Bồ Tát mới phát tâm thấy trong giấc mộng?


Đức Thế Tôn nói rằng: 


Này Dược Quân, lần thứ nhất, vị ấy thấy lửa đang bốc cháy. Khi thấy như vậy, vị Bồ Tát ấy cần khởi tâm rằng: “Tất cả phiền não của ta đã bị thiêu đốt.”


Lần thứ hai, này Dược Quân, vị ấy thấy nước đang cuộn xoáy, trào dâng và chảy xiết. Khi thấy như vậy, vị Bồ Tát mới phát tâm không nên phá vỡ.


Vì sao vậy ? 


Bởi vì, này Dược Quân, nhờ thấy như thế mà vị Bồ Tát ấy đã trừ diệt tất cả trói buộc của si mê và tiêu trừ tất cả các ác.


Lần thứ ba, này Dược Quân, vị Bồ Tát mới phát tâm thấy trong mộng một nỗi sợ hãi to lớn.


Bồ Tát Dược Quân hỏi: “Thưa đức Thế Tôn, đó là nỗi sợ hãi gì?”


188. Đức Thế Tôn trả lời: 


Vị ấy thấy đầu của chính thân mình bị cạo sạch.


Khi thấy như vậy, vị Bồ Tát mới phát tâm, này Dược Quân, không nên khởi tâm muốn phá vỡ.


Vì sao vậy? 


Bởi vì vị ấy cần phải khởi tâm như vầy: “Tham, sân và si nơi ta đã bị cạo sạch, và vòng luân hồi sáu nẻo của ta sẽ bị đánh bại.”


Cũng như vậy, này Dược Quân, vị ấy hiểu được tất cả cái được thấy trong tâm thức đều chỉ là cảnh tượng do tự tâm hiện, giống như cảnh tượng trong giấc mộng. Kể cả lúc đi, đứng, ngồi, nằm, trong lúc sinh hoạt, trong lúc thiền chỉ, trong lúc thiền quán, trong lúc thiền định, trong lúc nhập thiền, vị ấy thấy các ác bất thiện khởi lên, các cảm thọ khó chịu, nặng nề, khổ đau, không lạc khởi lên, các cảm thọ không như ý khởi lên, một trạng thái chặn đứng như không thể vượt qua khởi lên, hoặc khi các ác bất thiện đã được trừ diệt, các cảm thọ khổ đau, khó chịu, không lạc đã được trừ diệt, một cảm thọ an lạc, thư thái, dũng mãnh, sáng suốt, hiểu biết khởi lên, hoặc một trạng thái rỗng không mênh mông khởi lên, hoặc một trạng thái hiểu biết mênh mông khởi lên, hoặc một trạng thái không phải tưởng cũng không phải là chẳng phải tưởng khởi lên, hoặc một trạng thái cảm thấy chứng đắc khởi lên, hoặc một trạng thái thần thông khởi lên, vị ấy không do dự, không sợ hãi, không khiếp sợ, không thoái lui, không từ bỏ, không đắm chìm vào các trạng thái ấy, và cũng không khởi tâm phá vỡ các cảnh tượng ấy, các tướng trạng ấy. 


Vì sao vậy?


Bởi vì vị ấy biết rằng: “Các dao động phiền não của ta đang bị đốt cháy, các ác bất thiện của ta đang bị đoạn tận, các tập khí rất sâu của ta đang bị diệt trừ, các khổ đau của ta đang được đoạn diệt. Đây chỉ là bóng dáng của các nghiệp ta đã làm trong quá khứ, là tướng trạng của vọng tưởng, là diệu dụng của tuệ giác ngày càng rõ ràng biến hiện, không có thật tánh, nó như cảnh tượng trong giấc mộng, như ảo ảnh, như hình trong gương, như bóng trăng trong nước, như thành phố ảo ảnh hiện giữa trời, như tiếng vang giữa hang sâu. Tuệ giác của ta không lay động, Trí Toàn Giác của ta luôn chói sáng, chí nguyện ta không thoái chuyển, đại nguyện của ta không bị khuất phục.


Vị ấy chắc chắn sẽ không sinh vào địa ngục, không sinh vào loài súc sinh, không sinh vào loài ngạ quỷ, không sinh vào loài A-tu-la, không sinh vào loài rồng, và cũng không sinh vào loài chư thiên sống trên các cõi trời.


Vị Bồ Tát mới phát tâm ấy, này Dược Quân, sẽ được tái sinh trong các cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh.


189. Này Dược Quân, về sau này, vào thời kỳ cuối cùng, nếu có một chúng sinh nào hoàn toàn xoay chuyển hướng tâm mình về Tỉnh Thức, thì người ấy sẽ bị rất nhiều sự mắng nhiếc và sống trong cảnh bị khinh miệt.


Trong hoàn cảnh như vậy, vị Bồ Tát mới phát tâm ấy, này Dược Quân, không nên khởi tâm nản chí, cũng không nên bỏ cuộc.


190. Này Dược Quân, có rất nhiều pháp đã được Ta thuyết giảng.


Và Ta, này Dược Quân, cũng đã tu hành hạnh khó thực hành trong vô số hàng trăm ngàn triệu tỷ tỷ kiếp.


Này Dược Quân, Ta không hề thực hành hạnh khó thực hành vì mục đích hưởng thụ vương quyền, vì lợi dưỡng đời sống, hay vì hưởng thụ phú quý. Chính vì để chứng ngộ pháp hiện hữu của chính mình (svabhāva-dharma), này Dược Quân, mà Ta đã thực hành hạnh khó thực hành.


Ta vẫn chưa chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho đến khi Ta nghe được bài giảng pháp này.


Này Dược Quân, vào đúng thời điểm mà Ta nghe được bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này, ngay trong ngày hôm đó, Ta đã thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


Bài giảng pháp ấy, này Dược Quân, thật là rất sâu. Này Dược Quân, bài giảng pháp này là điều vô cùng khó gặp. Ngay cả trong hàng ngàn triệu tỷ tỷ kiếp, việc được nghe pháp này vẫn là điều cực kỳ hiếm có. Sự xuất hiện của các đức Như Lai, này Dược Quân, là điều cực kỳ khó gặp. Này Dược Quân, người có thể trì giữ được bài giảng pháp này, cũng là điều cực kỳ hiếm có.


191. Những ai lắng nghe bài giảng pháp này, thì tất cả những vị ấy sẽ chứng đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong hàng trăm ngàn kiếp, này Dược Quân, các chúng sinh ấy sẽ quay lưng lại và hoàn toàn không bị dính mắc vào vòng luân hồi. Họ sẽ đạt được cõi Phật hoàn toàn thanh tịnh. Và họ sẽ nhận biết con đường đưa đến diệt tận. Những bậc hữu tình ấy sẽ hiểu rõ nơi nương tựa chân thật. Họ sẽ nhận thức chỗ an trụ nơi hiền thiện. Những bậc hữu tình ấy sẽ hiểu rõ các cảnh giới thiện lành của bậc đạt được thần thông. Họ cũng sẽ hiểu được sự diệt tận của các chỗ an trụ thiện lành.


192. Này Dược Quân, tại sao lại gọi là diệt tận các chỗ an trụ thiện lành?


Bồ Tát Dược Quân thưa rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, dù thiện hay là bất thiện, thì cũng đều nằm trong luân hồi, ý nghĩa của “diệt tận” chính là an trụ vào nền tảng của Chánh Pháp.


Đức Thế Tôn hỏi: 


Này Dược Quân, đâu là nền tảng của Chánh Pháp?


Bồ Tát Dược Quân thưa: 


Thưa đức Thế Tôn, nền tảng của Chánh Pháp chính là: khi nhận thấy trạng thái tinh tấn khởi lên, trạng thái giới hạnh khởi lên, trạng thái đầy đủ và thành tựu trọn vẹn sự có mặt của giới hạnh một cách toàn diện, và là kho tàng của Chánh Pháp.


Thưa đức Thế Tôn, đây chính là kho tàng của Chánh Pháp.




193. Bồ Tát Dược Quân thưa rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, do nguyên nhân nào mà Như Lai xuất hiện trong thế gian?


Đức Thế Tôn nói: 


Tốt lắm! Tốt lắm! Này Dược Quân, Ông cho rằng cần phải thưa hỏi đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác về ý nghĩa này – là việc rất đúng đắn.


Này Dược Quân, những ai thấu hiểu việc tích tập nhiều trí thức, đa văn, học rộng, hiểu nhiều, trí tuệ sâu rộng, thì chính họ là những người hiểu biết sự xuất hiện của Như Lai. Khi họ đã biết rõ sự xuất hiện của Như Lai, thì họ cũng sẽ hiểu rõ rằng đây là nơi an trú của hạnh phúc do sự xuất hiện của Như Lai mang lại.


Và này Dược Quân, khi Như Lai xuất hiện trong thế gian, thì khi ấy chúng sinh sẽ hiểu rõ tất cả các pháp. Họ hiểu biết các pháp phương tiện thiện xảo. Họ hiểu rõ các pháp thế tục và xuất thế. Họ hiểu thấu các trí tuệ thế tục và xuất thế.


194. Bồ Tát Dược Quân thưa rằng: 


Khi đã nhận thức như vậy về trí tuệ, thì điều gì được gọi là Niết-bàn?


Đức Thế Tôn dạy: 


Này Dược Quân, chính chánh pháp là điều họ hiểu biết. Chính khi nhận biết được chánh pháp, thì này Dược Quân, người thấu suốt được tổng thể của chánh pháp sẽ đạt được lợi ích đầu tiên.


Và nếu nắm giữ đúng theo những gì đã được nghe, đúng như bản tánh chơn thật như nó đang là, thì chính điều đó sẽ trở thành lợi ích chân chánh. Đi theo đúng con đường bản tánh chơn thật như nó đang là ấy, thì sẽ dập tắt được ngọn lửa sinh diệt đang cháy trong tâm thức, đạt được trạng thái Niết-bàn tịch tĩnh.


195. Lấy một ví dụ về một vụ sát nhân xảy ra gần đây trong thành Vương Xá, này Dược Quân, có một người là thương nhân, vì muốn tìm lợi lộc, người ấy lên đường, mang theo một ngàn lượng vàng, bao gồm cả vàng mượn của người khác và của chính mình, rồi tiếp tục cuộc hành trình.


Khi người ấy ra đi, cha mẹ của người ấy đã nói như vầy:


“Này con yêu, con đang mang theo một ngàn lượng vàng, gồm cả vàng mượn của người khác và của chính mình. Vậy con phải gìn giữ số vàng ấy cho thật tốt. Không được để mất mát hay tiêu hủy bất cứ phần nào trong số ấy. Hãy làm cho số vàng ấy trở nên đại lợi, sinh sôi nhiều thêm, và gìn giữ nó cho đúng đắn. Như vậy, chúng ta sẽ có được đại lợi, giàu có và sẽ sống một đời an vui.”


Người con trai ấy đã nói với cha mẹ rằng: 


“Con sẽ làm như vậy!” 


Sau khi đã thốt ra lời ấy, người thương nhân ấy mang theo vàng, và lên đường đi tiếp. Thế nhưng, do bất cẩn, chỉ trong khoảng một tháng, người thương nhân ấy đã làm mất hết, khiến toàn bộ số vàng bị tiêu tan.


196. Bấy giờ, người ấy rơi vào nỗi lo âu sâu sắc, tâm can bị đâm thủng bởi ưu sầu và đau khổ, toàn thân run rẩy, không dám trở về nhà của mình.


Khi ấy, cha mẹ của người ấy nghe tin rằng: “Tất cả số vàng ấy đã bị đứa con trai của hai người làm mất hết.”. 


Nghe xong, hai người trở nên hoàn toàn tuyệt vọng, tâm can bị đánh gục bởi sầu khổ và đau đớn, họ xé rách y phục, than khóc rên xiết, và than vãn như sau:


“Đứa con bất hiếu này đã sinh vào trong nhà chúng ta dưới hình thức của một đứa con, nhưng lại phá hoại toàn bộ gia đình, khiến chúng ta trở thành người vô sản, cô độc, biến thành những người nô lệ và lao dịch.”


Cha mẹ của người ấy, với tâm hồn bị tràn ngập bởi muôn vàn lo lắng, rơi vào trạng thái tuyệt vọng. 


Sau đó, người con trai ấy nghe tin: “Cha mẹ ta đã chìm sâu trong trạng thái tuyệt vọng”. Chính đứa con ấy, cũng rơi vào tình trạng hoàn toàn tuyệt vọng, u sầu buồn bã và lâm bệnh rất nặng.


197. Cũng vậy, này Dược Quân, đức Như Lai cũng tuyên thuyết về ý nghĩa ấy như sau:


Những chúng sinh nào không khởi lòng tin thanh tịnh, an bình trong giáo pháp của Ta, thì đến lúc lâm chung, tâm họ rơi vào trạng thái tuyệt vọng, trái tim bị dày vò bởi ưu sầu và đau khổ, bị loại khỏi châu báu lớn của chánh pháp, và lìa đời. Giống như hai cha mẹ ấy vì mất vàng, nên bị ưu sầu và đau đớn đâm thấu tâm can, rơi vào nỗi khổ vô hạn, rồi sau cùng cũng lìa đời.


198. Cũng như vậy, này Dược Quân, những ai không khởi lòng tin trong giáo pháp của Ta, thì đến lúc lâm chung, họ sẽ bị thiêu đốt bởi sự ân hận, than khóc rên xiết, và cảm thọ nỗi khổ đau cùng cực. Họ đã tiêu dùng hết các công đức đã tạo trong quá khứ, nhưng không tiếp tục gieo trồng thêm công đức mới nào vào những ruộng phước tốt.


Do đó, khi phước báu bị cạn kiệt, tâm họ chìm trong u sầu, thì vào lúc lâm chung, họ sẽ nhìn thấy sự sinh vào các cảnh giới địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, cõi Diêm ma đầy kinh khiếp và hung tợn, rồi trong tâm nghĩ rằng:


“Ai sẽ là người cứu giúp ta đây, khi ta rơi vào cõi địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, cõi Diêm ma? Cầu mong ta không thấy những nỗi khổ ấy, không cảm thọ những đau đớn ấy!”


199. Khi người ấy đang than vãn như vậy, và đang bước vào thế giới bên kia, thì cha mẹ của người ấy liền nói rằng: “Con ơi, giờ đây chúng ta biết phải làm sao đây?”


Và sau đó, họ cất tiếng tụng các bài kệ như sau:


54. Cơn bệnh này, rất là đau khổ, 

Và chúng ta kinh hoàng rất lớn,

Nhưng không cách nào níu con lại.

Này con yêu dấu, hãy trấn an, 

Không có cái chết dành con đâu. 

Người đau ốm không cần sợ chết.


55. Con yêu ơi, con sẽ khỏi bệnh,

Sẽ không còn mê man đáng sợ,

Hãy vững lòng lên, con yêu quý, 

Rồi con sẽ được khỏi bệnh thôi.


Người con nói:


56. Thức của con đang dần tắt nghẽn, 

Thân thể con dày vò dữ dội.

Tất cả tay chân đều đau đớn. 

Con nhìn thấy cái chết đến gần.


57. Đôi mắt con không thấy gì nữa, 

Đôi tai con không còn nghe rõ.

Con sẽ không thể lấy lại thính lực, 

Thân thể con không chịu đựng được.


58. Từng phần thân con, từng khớp xương, 

Không cảm giác như gỗ vô tri.

Này mẹ kính yêu, mẹ thấy chăng? 

Cái chết con — nó đang đến gần.


Người mẹ nói:


59. Này con yêu, không nên nói vậy, 

Xin đừng khiến mẹ thêm lo sợ.

Thân thể con đang bị nóng sốt, 

Điều con thấy chỉ là do bệnh.


Người con nói:


60. Trong thân con không cảm thấy sốt, 

Không cảm thấy bệnh tật đau đớn.

Nhưng con thấy cái chết khủng khiếp, 

Thân thể con bị đánh hoàn toàn.


61. Con nhìn thấy toàn bộ thân con, 

Bằng chính cảm nhận của thân con, 

Đang bị giày vò đau sâu sắc.

Con biết nương tựa ai bây giờ? 

Ai cứu con thoát khỏi cảnh này?


62. Cha mẹ liền bảo: Này con yêu, 

Con đang bị thần linh nổi giận.

Hãy làm lễ cúng tế chư thiên, 

Rồi sau đó con được bình phục.


Người con nói: 


63. Xin cha mẹ hãy làm nhanh đi, 

Xin hãy tìm thần hộ mạng con,

Để mang lại bình an cho con.


200. Lúc bấy giờ, hai người cha mẹ của người ấy, đến đền thờ thần linh, và dâng hương cho vị thần. Rồi, người giữ đền, sau khi đã dâng hương cho vị thần, liền nói lời như sau:


“Vị thần của gia đình ông bà đang giận dữ. Ông bà cần phải làm việc phụng sự cho thần linh, điều ấy cần được thực hiện. 


Phải cử hành nghi lễ tế tự. Trong nghi lễ ấy, một con vật phải bị hiến tế. Và cả một con người cũng phải bị giết để tế thần. Khi ấy, con trai của hai ông bà sẽ được giải thoát khỏi bệnh tật.”


Ngay lúc ấy, hai người cha mẹ đó liền suy nghĩ:


“Chúng ta phải làm sao đây, vì chúng ta quá nghèo khổ? Nếu như vị thần không nguôi giận, thì con trai của chúng ta sẽ chết. Nhưng nếu thần linh hoan hỷ, thì chúng ta, dù rất nghèo khổ, cũng sẽ tìm cách đem đến một con vật và một người để tế thần.


201. Lúc bấy giờ, hai người ấy liền vội vã trở về nhà của mình. Bất kỳ vật dụng gì hiện có trong nhà, dù là vật nhỏ nhất, họ liền đem tất cả những thứ đó đi bán, rồi họ đi để mua một con vật.


Sau đó, họ gặp một người và nói như sau:


“Này ông, xin hãy cho chúng tôi vay một ít vàng. Nếu chúng tôi có thể trả lại cho ông vào ngày thứ mười, thì điều đó thật tốt đẹp. Nhưng nếu chúng tôi không thể trả lại, thì khi đó, chúng tôi sẽ trở thành nô lệ của ông, làm công nhân cho ông.”


Hai người ấy, sau khi nhận lấy số vàng đó, liền đi để mua một người.


202. Sau đó, từ hai người cha mẹ ấy, một con vật và một người đã được mua. Và người ấy không hề biết rằng họ sẽ giết mình.


Lúc bấy giờ, hai người là cha mẹ ấy rơi vào tình trạng mê loạn, và không còn quay về vào ngôi nhà của mình nữa.


Hai người ấy, đến ngôi đền thần, đã thỉnh cầu người giữ đền rằng:


“Xin hãy nhanh chóng, ngay bây giờ, cử hành nghi lễ cúng tế.”


Sau đó, hai người cha mẹ ấy đích thân giết chết con vật ấy, và cũng giết luôn người ấy.


Sau đó, người giữ đền bắt đầu thực hiện lễ tế, và nhóm lửa cho nghi thức cúng tế.


Bấy giờ, vị thần hiện xuống và nói như sau:


“Con trai của ngươi đã được ta tiếp nhận.”


Lúc ấy, hai người cha mẹ ấy, với niềm vui và hân hoan, lớn tiếng thốt lên:


“Thà rằng con trai chúng ta được sống, còn chúng ta sẽ trở thành nô lệ.”


Sau đó, hai người cha mẹ ấy, sau khi đã làm hài lòng vị thần và quay về, trở về đến ngôi nhà của mình, thì lúc ấy, họ nhìn thấy đứa con trai của mình đã qua đời.


Lúc ấy, hai người cha mẹ ấy, với tâm can bị xuyên thấu bởi nỗi đau buồn và thống khổ lớn, trở nên hoàn toàn tuyệt vọng. Và ngay tại chỗ đó, cả hai đã chết.


Không lâu sau đó, người cho vay vàng khi biết tin cha mẹ người kia đã chết, đã không cam tâm cảnh bị mất vàng, đã tố cáo vụ việc lên triều đình vua Bim-bi-sa-ra. Theo pháp luật của nước Mad-ga-đha, các hình thức tế lễ bằng người sống đều bị nghiêm trị, người giữ đền bị xử tử hình.


Cũng vậy, này Dược Quân, việc thân cận với ác tri thức phải được xem là như thế.


203. Bồ Tát Dược Quân nói rằng: “Con xin hỏi, thưa đức Thế Tôn, con xin hỏi, thưa bậc Thiện Thệ.”


Đức Thế Tôn nói: “Hãy hỏi đi, này Dược Quân.”


Bồ Tát Dược Quân thưa: 


Thưa đức Thế Tôn, sự tái sinh của những chúng sinh ấy ở đâu? Và sự đi đến tương lai của họ sẽ ra sao?


Đức Thế Tôn nói: 


Đủ rồi, này Dược Quân, việc này ông hỏi thì có ích gì cho ông?


Bồ Tát Dược Quân vẫn thưa: 


Con xin thưa hỏi, thưa đức Thế Tôn, con xin thưa hỏi, thưa đức Thiện Thệ.


Đức Thế Tôn nói:


Này Dược Quân, người mẹ đã tái sinh vào đại địa ngục Não Nhiệt Rau-ra-va. 


Người cha đã tái sinh vào đại địa ngục Tích Tập Saṃ-ghā-ta. 


Người con trai đã tái sinh vào đại địa ngục Nóng Cháy Ta-pa-nā.


Người giữ đền đã tái sinh vào đại địa ngục Vô Gián Ma-hā-vī-cī.


204. Bồ Tát Dược Quân thưa rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, sự tái sinh của người bị giết mà không có lỗi sẽ ở đâu? Và sự đi đến tương lai của người ấy là gì?


Đức Thế Tôn dạy rằng: 


Này Dược Quân, người không có lỗi ấy sẽ tái sinh vào cõi trời Ba Mươi Ba, cùng sống với các chư thiên – điều này nên được biết rõ.


Bồ Tát Dược Quân lại thưa: 


Thưa đức Thế Tôn, nhân là gì, duyên là gì mà người ấy được tái sinh vào cõi trời Ba Mươi Ba?


Đức Thế Tôn dạy: 


Hãy lắng nghe, này Dược Quân! Người ấy lúc trước khi bị bán, đã từng quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng, vào lúc sắp chết, trước khi bị giết hại, đã khởi tâm thanh tịnh hướng về Như Lai, rồi thốt lên lời này:


“Con xin hoàn toàn quy mạng đức Thế Tôn Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác” – chỉ một lần thốt lên như thế.


Nhờ vào căn lành đó, này Dược Quân, người ấy sẽ hưởng an lạc trong cõi trời Ba Mươi Ba suốt 60 kiếp. Trong 80 kiếp, người ấy sẽ được sanh ra với khả năng nhớ lại các đời sống quá khứ. Trong mỗi đời sống, người ấy sẽ thoát khỏi tất cả khổ đau. Ngay khi mới sinh ra, người ấy sẽ dập tắt tất cả khổ đau.


Từ ví dụ này, này Dược Quân, có thể thấy, không thể nào khiến cho tất cả chúng sinh đều đồng thời được dập tắt hoàn toàn ngọn lửa sinh diệt đang thiêu đốt trong tâm thức của họ, để đạt đến Niết Bàn hoàn toàn tịch tịnh.


205. Khi lời ấy đã được nói ra, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, làm sao để có thể khiến cho tất cả chúng sinh được dập tắt hoàn toàn ngọn lửa sinh diệt đang thiêu đốt trong tâm thức của họ, để đạt đến Niết Bàn hoàn toàn tịch tịnh?


Đức Thế Tôn nói rằng: 


Này Dược Quân, phải tinh tấn hành động.


Bồ Tát Dược Quân thưa: 


Thưa đức Thế Tôn, phải tinh tấn hành động thế nào?


Đức Thế Tôn dạy: 


Này Dược Quân, hãy lắng nghe. Tinh tấn hành động được nói đến là ở chỗ thấy được kết quả.


Đó là: quả vị Nhập Lưu - Tu Đà Hoàn (srotaāpatti) – được gọi là nền tảng của tinh tấn.


Quả vị Nhất Lai - Tư Đà Hàm (sakṛdāgāmi) – được gọi là nền tảng của tinh tấn.


Quả vị Bất Lai - A Na Hàm (anāgāmi) – được gọi là nền tảng của tinh tấn.


Quả vị A La Hán (arhatva) và Sự Diệt Tận của bậc A La Hán (arhan-nirodhaḥ) – đều là nền tảng của tinh tấn.


Quả vị Độc Giác Phật (pratyekabuddha) và trí tuệ của quả vị Độc Giác Phật (pratyekabuddha-phala-jñānaṃ) – được gọi là nền tảng của tinh tấn.


Quả vị ở các tầng địa của Bồ Tát (bodhisattva-bhūmi), và chỗ an trụ của Tỉnh Thức (bodhi-sthānaṃ) – được gọi là nền tảng của tinh tấn.


Này Dược Quân, đây là những tên gọi của các nền tảng của tinh tấn.


206. Bồ Tát Dược Quân thưa: 


Thưa đức Thế Tôn, người chứng quả Nhập Lưu - Tu Đà Hoàn cần được nhận biết như thế nào? Và quả vị Nhập Lưu được hiển lộ ra sao?


Đức Thế Tôn dạy: 


Này Dược Quân, lấy một ví dụ, có hai người cùng gieo hạt giống cây trên hai thửa đất nằm cạnh bên. Một người gieo trồng một cái cây, ngay trong ngày gieo trồng, hạt giống của cây ấy nảy mầm. Ngay trong ngày mầm cây ấy nảy ra, thì cũng trong ngày ấy, mầm ấy đã đâm sâu xuống lòng đất đến một yo-ja-na (1 yo-ja-na bằng 12km), và chồi, cành, lá, hoa, quả trổ ra xum xuê, trở thành một cây lớn.


Lại có người thứ hai cũng gieo trồng một cái cây như vậy. Thế nhưng trong cùng ngày ấy, do gió thổi mạnh, hạt giống của cây ấy không nảy mầm. Người ấy liền bứng hạt giống cái cây ấy lên khỏi đất đó, rồi chạy sang đào lỗ trên đất của người trước để trồng hạt giống đó xuống, và hạt giống đó cũng không nảy mầm, không phát triển thành cây.


Rồi người trồng cây chỉ trong một ngày mà thành cây lớn kia, thấy người ấy đào đất của mình, mới hỏi: “Tại sao ông lại đào đất của tôi?”


Rồi người ấy sinh ra tâm đố kỵ, tranh chấp, mắng nhiếc, cãi cọ và gây gổ với người trồng cây chỉ trong một ngày mà thành cây lớn kia.


207. Vào thời điểm ấy, đức vua đã nghe được rằng có hai người đàn ông, đang cãi nhau, sinh ra sự tranh chấp và đấu đá lẫn nhau. Và đức vua đã sai một sứ giả đến hai người kia, và bảo rằng: “Này khanh, hãy đi và dẫn về hai người đó.”


Người sứ giả ấy, sau khi nhận mệnh lệnh từ đức vua, liền đáp lại: “Vâng, thưa đức vua”.


Người ấy liền nhanh chóng, tiến đến, và nói với hai người kia: “Đức vua đang gọi hai người các ngươi.”


Khi ấy, một trong hai người đàn ông trở nên sợ hãi và hoảng loạn ngay tại chỗ. Còn người thứ hai thì không sợ hãi, không rúng động.


Hai người ấy được đưa đến nơi vua, bởi chính người sứ giả, và được trình diện trước mặt đức vua.


Khi ấy, đức vua hỏi hai người ấy như sau:


“Này các ngươi, chuyện gì đã xảy ra? Vì sao lại sinh ra cãi cọ, xung đột và tranh chấp?”


208. Khi ấy, hai người đàn ông kia đứng dậy, thưa với đức vua rằng:


Thưa đại vương, chúng thần không có một chút đất đai nào thuộc về mình.


Trên một mảnh đất được xin mượn, một cây đã được trồng. Ngay trong ngày gieo trồng, hạt giống của cây ấy nảy mầm. Cũng trong ngày đó, đã xuất hiện chồi, lá, hoa, và cả quả. Quả ấy có cả phần còn sống và phần đã chín.


Và từ người đàn ông thứ hai này, cũng trong ngày ấy, trên mảnh đất ấy, một cây cũng được trồng. Và cây ấy, mầm không mọc lên, do gió mạnh làm xáo động, nên không xuất hiện lá, không có hoa, cũng không có quả. Và, thưa đại vương, rễ của cây ấy cũng không thể cắm sâu xuống.


Thế nhưng người này lại tranh cãi với tôi, cho rằng: “Lỗi là ở tôi, và do tôi nên cây của người ấy không nảy mầm”.


Vậy nên, thưa đức vua, xin chính ngài hãy tự mình kiểm tra, để tự biết rõ sự thật. Vì quả thực không có bất kỳ lỗi lầm nào thuộc về tôi.


209. Khi ấy, đức vua triệu tập 300 triệu quần thần, gom họp lại trong một hội trường, và nói như sau: “Các khanh hãy nói ra ý kiến của mình.”


Các đại thần thưa rằng: “Chúng thần nên nói điều gì đây, thưa Đại vương?”


Đức vua nói: “Các khanh đã từng thấy hoặc nghe ở đâu rằng trong cùng một ngày khi một cái cây được gieo trồng, thì ngay trong ngày đó mầm cây lại mọc lên, lá, hoa, và quả đồng thời sinh ra, quả có cả phần chín và phần sống chưa? Việc này các khanh cần phải xác minh rõ ràng.”


Khi ấy, các vị đại thần ấy đứng dậy từ chỗ ngồi, bạch với đức vua rằng: 


Tâu đại vương, chúng thần không đủ khả năng để xác minh điều này. Và chúng thần cũng không thể đưa ra một kết luận xác thực về việc này. Tâu đại vương, đây thật là một điều kỳ diệu. Chính người này cần được hỏi thẳng:


“Này người kia, hãy nói rõ, có thật điều ngươi nói là sự thật hay không?”


Người ấy thưa rằng: “Tâu đại vương, điều này hoàn toàn là sự thật.”


Đức vua nói: 


64. Chúng ta chưa từng nghe điều ấy, 

Cũng không thể nào tin nhận được, 

Lời nói của ngươi thật khó tin.

Ngươi nói rằng cây được gieo trồng, 

Ngay trong ngày ấy mầm đã mọc.


65. Ngươi lại nói rằng trong ngày ấy, 

Lá, hoa, và quả đều đã có.

Rồi người ấy, chắp tay cung kính, 

Liền thưa với đức vua như sau:


66. “Xin Đại vương tự mình hãy đi, 

Và gieo một hạt cây vào mảnh đất đó, 

Rồi ngài thấy mầm mọc lên ngay.”


210. Lúc bấy giờ, đức vua ấy cùng với 300 triệu quần thần đi ra ngoài thành. Và hai người đàn ông ấy liền bị giam giữ trong ngục tối.


Sau đó, đức vua đích thân gieo một hạt cây. Nhưng cây ấy không mọc mầm, cũng không có lá, không hoa, và không quả.


Lúc đó, đức vua nổi giận và nói rằng: “Này các hiền khanh, hãy đi và mang đến các cưa và rìu!”


Sau khi mang tới cưa và rìu, cây nào đã được trồng bởi người kia, và đã sinh ra lá, hoa và quả, thì đức vua vì phẫn nộ chặt đứt cây ấy.


211. Và khi cây đó bị chặt, thì mười hai cây khác hiện ra. Khi mười hai cây ấy bị chặt, lại xuất hiện hai mươi bốn cây khác hiện ra. Tất cả đều được làm bằng bảy thứ báu, có rễ, có lá, có hoa, có quả, và đang mọc mầm.


Từ hai mươi bốn cây ấy, xuất hiện hai mươi bốn con chim gọi là phượng hoàng kur-ku-ṭa. Chúng có mào bằng vàng, mỏ bằng vàng, và lông vũ làm bằng bảy thứ báu.


Khi ấy, đức vua bị giận dữ chế ngự, lấy rìu bằng tay mình, và chặt mạnh vào cây ấy. Và từ cây ấy, khi bị chặt, nước cam lồ bất tử am-ṛi-ta liền tuôn chảy ra.


212. Lúc bấy giờ, đức vua ấy với tâm hốt hoảng, liền ra lệnh rằng:


“Hãy đi ngay, và thả hai người kia ra khỏi nhà tù!”


Các đại thần đồng thanh đáp rằng: “Vâng, thưa Đại vương!”


Ngay lúc đó, họ liền vội vã, thả hai người đàn ông ấy khỏi nhà ngục, rồi dẫn họ đến chỗ có cây kia.


Khi ấy, đức vua hỏi rằng:


“Có phải cây này do ngươi gieo trồng phải không? Tại sao, sau khi mọc lên thành một cây, rồi khi bị chặt, lại tăng trưởng gấp bộ cho đến khi phân ra thành hai mươi bốn cây?


Còn tại sao cây do ta gieo, thì chẳng ra mầm, chẳng ra lá, chẳng ra hoa, cũng chẳng kết quả?”


Lúc ấy, người đàn ông ấy thưa rằng:


“Thưa Đại vương, công đức của tôi như thế nào, thì công đức của ngài không giống như vậy.”


213. Khi ấy, 300 triệu quần thần quỳ gối trước người ấy và thưa rằng:


“Chính Ngài phải là người trị vì đất nước này. Vì đức vua trước đây không còn xứng đáng nữa.”


Khi ấy, người ấy đáp lại các vị đại thần bằng các bài kệ:


67. Ta hoàn toàn không còn mong cầu,

Thụ hưởng ngôi vua hay quyền lực,

Ta cũng chẳng cần đến lúa gạo,

Hay tiền của, tài sản thế gian.

Ước nguyện của ta được kính dâng,

Lên đức Phật Toàn Giác Tối Thượng,

Bậc Tối Thắng Giữa Loài Hai Chân,


68. Nguyện đi đến cảnh giới tịch diệt,

Là Niết Bàn hoàn toàn an tịnh, 

Là nơi đến của đức Như Lai. 

Nguyện sẽ giảng pháp cho các người, 

Đưa về con đường đến Niết-bàn.


69. Ngài ngồi kiết già, phát nguyện lớn,

Ngay chính tại đất đó như sau: 

“Do ác nghiệp đã tạo từ trước, 

Ta bị giam cầm bởi nhà vua.

Nhưng nay ta, khi đã phát nguyện, 

Nguyện cho mọi nghiệp ác của ta, 

Đều được tiêu trừ và tận diệt.”


214. Lúc bấy giờ, hai mươi bốn con chim phượng hoàng kuk-ku-ṭa ấy đã dùng mỏ kim cương mà đánh vào các nhạc cụ thiên giới. 


Lúc bấy giờ, vào thời điểm ấy, 32.000 cung điện đã hiện ra. Mỗi một lầu điện ấy đều có kích thước là 25 yo-ja-na hiện ra.


Trong mỗi một lầu điện ấy, có 25 con chim phượng hoàng kuk-ku-ṭāḥ hiện ra. Chúng đều có mào bằng vàng, mỏ bằng vàng, và gương mặt bằng vàng. Chúng cất lên tiếng nói như loài người:


70. Không đúng đắn thay, thưa Đại vương, 

Khi cây ấy bị ngài chặt đốn,

Hai mươi bốn cây lại mọc lên,

Cho dù Đại vương tiếp tục chặt,

Sẽ có hàng tỷ cây mọc lên.


71. Do nghiệp ác này, ngài sẽ phải, 

Thọ hưởng quả báo thật bất thiện.

Ngài không biết loại chúng sinh nào,

Đã có thể gieo trồng cây này.


Vua nói rằng:


72. Ta thật không biết sự việc này, 

Xin bậc Đại Hạnh hãy giải thích.

Vị Đại Sĩ kia người thế nào, 

Mà đã gieo trồng được cây này?


Các con chim nói rằng:


73. Người này chính là đèn thế gian, 

Chiếu ánh sáng soi sáng thế gian, 

Người ấy tương lai sẽ xuất hiện,

Là thầy dẫn đường của thế gian.

Là vị giải thoát mọi chúng sinh, 

Khỏi trói buộc luân hồi sinh tử.


Vua nói rằng:


74. Ta xin hỏi ai người thứ hai, 

Kẻ đã trồng cây mà không mọc?

Người ấy đã làm nghiệp ác gì? 

Xin bậc hiền trí hãy nói rõ.


Các con chim nói rằng:


75. Kẻ ấy là Đê-va-đat-ta, 

Là kẻ ngu si, cây không mọc.

Người ấy không một chút thiện nghiệp, 

Thì làm sao cây mọc lên được?


214. Lúc bấy giờ, vào thời điểm ấy, 300 triệu quần thần, sau khi nghe bài giảng pháp ấy, tất cả đều trở thành các vị Bồ Tát an trụ trong tầng địa thứ mười, và đã đạt được các thắng trí. Và vị vua ấy cũng an trụ trong tầng địa thứ mười, và đã chứng ngộ các thiện pháp.


Này Dược Quân, qua ví dụ này, biết rằng người trồng cây trong cùng một ngày đã nảy mầm, đâm rễ, nở hoa, kết trái và trái có phần sống và phần chín, được hiểu là người đã chứng quả Nhập Lưu Tu Đà Hoàn. Này Dược Quân, những ai, trong một ngày, đã trồng hạt giống Tỉnh Thức, đã khởi hành trên con đường Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì trong cùng ngày hôm ấy, hạt giống Tỉnh Thức của người ấy cũng đồng thời nảy mầm, cắm rễ thiện căn sâu dày, đâm chồi Tỉnh Thức, trổ cành Tỉnh Thức, ra lá Tỉnh Thức, đơm hoa Tỉnh Thức, kết quả Toàn Giác, là quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


Quả có phần sống và phần chín, này Dược Quân, phần chín là những ai đã thành tựu quả Nhập Lưu Tu Đà Hoàn, phần sống là người ấy cần phải tinh tấn nỗ lực thực hành để tiếp tục con đường để đạt được Thánh quả Nhất Lai Tư Đà Hàm, Bất Lai A Na Hàm, Ứng Cúng A La Hán, đến quả Độc Giác Phật, tuần tự tiến lên các tầng địa từ địa thứ nhất đến địa thứ mười của Bồ Tát, cuối cùng đạt được quả Toàn Giác, là quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Như Lai.


Người trồng cây không mọc, này Dược Quân, là những người phàm phu ngu si, trí tuệ non nớt, chưa từng tích luỹ điều lành, tâm đầy ngã mạn, tự cao, lòng nhiều đố kỵ như Đê-va-đát-ta. Những người ấy ngu ấy, trí tuệ mờ tối, tâm không vững chắc, trí dễ lay động, ác nghiệp sâu dày, khi gió ngoại cảnh thổi mạnh thì hạt giống Tỉnh Thức họ trồng không thể nảy mầm, đơm hoa, kết trái, họ không thể tiếp nhận trực tiếp pháp Toàn Giác của Như Lai. Những người ấy, khi thấy những người khác có công đức hơn họ, cuộc sống, địa vị, an lạc và hạnh phúc hơn họ, thường sanh lòng đố kỵ, ganh ghét, tranh chấp, mong muốn phá hoại, cướp đoạt công đức của người khác, giống như người kia tự nhổ cây mình rồi đi đào đất của người khác.


Ở đây, này Dược Quân, vị vua và 300 triệu quần thần ấy được ví như các nhà luận thuyết ngoại đạo, những người chủ thuyết các pháp thế gian, những người tu hành theo pháp của ngoại đạo, họ bị tà kiến che mờ, mắc kẹt trong ngã chấp, hoàn toàn không biết Trí Toàn Giác của Như Lai, con đường của Như Lai, đạo hạnh của Như Lai, giải thoát của Như Lai, phương tiện thiện xảo của Như Lai, thần thông trí lực của Như Lai, nên cùng nhau nhóm họp lại để biện luận, chứng minh pháp thế gian với Như Lai, và không đặt niềm tin vào pháp Toàn Giác của Như Lai, cho rằng: “Pháp ấy thật khó tin”, do họ chưa từng thấy.


Này Dược Quân, như vị vua kia, tự mình làm, hoặc bảo người dùng cưa và rìu chặt cây, cũng vậy, các ngoại đạo dùng các luận thuyết sắc bén, các lập luận logic hợp lý trên thế gian, mong muốn cưa đổ cây Toàn Giác của Như Lai. Nhưng pháp Toàn Giác của Như Lai, này Dược Quân, là pháp do Như Lai tự chứng trong thiền, hoàn toàn im lặng, hoàn toàn tịch tĩnh, nằm ngoài ngôn ngữ, biện luận, là pháp vượt ngoài thế gian, là con đường Thánh Trí do mình tự chứng, thì làm sao các ngoại đạo có thể dùng luận thuyết thế gian, mà cưa đổ được pháp ấy. Này Dược Quân, các ngoại đạo kia, với trí tuệ non nớt như trẻ nít, chấp ngã sâu dày, bị mắc kẹt trong các luận thuyết thế gian, thì làm sao hiểu được pháp Toàn Giác của Như Lai, như vị vua kia, mặc dù có gieo trồng hạt giống vào đất, nhưng cây không mọc.


Này Dược Quân, như một cây vừa chặt, thì mười hai cây khác mọc lên. Mười hai cây vừa chặt, thì hai mươi bốn cây mọc lên. Cũng như vậy, một khi hạt giống Tỉnh Thức đã nảy mầm, cây Tỉnh Thức đã phát triển trong đất tâm của chúng sinh, thì không một thế lực bên ngoài nào có thể phá hoại, chặt gốc, trốc rễ Tỉnh Thức của chúng sinh ấy. Thế lực bên ngoài càng mạnh, càng mãnh liệt, thì cây Tỉnh Thức càng mọc lên mạnh mẽ, lần mọc sau so với lần mọc trước theo cấp số nhân. Ngoại cảnh tác động càng khổ đau, càng khốc liệt, thì tâm Tỉnh Thức càng sinh sôi phát triển mạnh mẽ, cho đến khi Tỉnh Thức phát triển kín đất tâm, thì khi ấy hoa Tỉnh Thức, quả Toàn Giác sẽ trổ kín nơi tâm của người ấy, đạt được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.


Như ví dụ vị vua kia dùng rìu chặt vào thân cây, nước cam lồ bất tử am-ri-ta liền chảy ra, này Dược Quân, cũng như vậy, khi ngoại cảnh tác động người đã lớn tâm Tỉnh Thức, trí tuệ bất tử am-ri-ta liền hiển hiện.


Người trồng cây trong một ngày cây ra nảy mầm, ra hoa, kết quả từ chối làm vua, này Dược Quân, là những vị chúng sanh tỉnh thức, những vị Đại Bồ Tát, khi sinh ra trong thế gian, hoàn toàn không tham luyến tài sản, sự nghiệp, địa vị, quyền lực trên thế gian, tất cả việc làm của người ấy đều chỉ hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sinh ra trong đời nào, vị ấy cũng đều làm phát triển tâm Tỉnh Thức, nở hoa Tỉnh Thức với quả cuối cùng là Tối Thượng Tỉnh Thức Toàn Giác của một đức Phật.


Này Dược Quân, các con chim phượng hoàng kuk-ku-ṭa chính là hiện thân sắc tướng của pháp Như Lai, để chỉ đường cho các chúng sinh biết cách Tích Luỹ Chánh Pháp, trồng các căn lành. Những ai thành tâm lắng nghe bài giảng Pháp của Như Lai, này Dược Quân, thì người ấy đã gieo trồng hạt giống Tỉnh Thức, sẽ có thể khởi hành trên con đường Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trong tương lai, người ấy chắc chắn sẽ thành quả Toàn Giác.


215. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, nhân là gì? Duyên là gì khiến cho 300 triệu quần thần đều trở thành những vị đã an trụ trong tầng địa thứ mười và đạt được các thắng trí?


Đức Thế Tôn nói rằng:


Hãy lắng nghe, này Dược Quân, Ta sẽ giảng rõ.


Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, vào đúng thời điểm ấy, đã mỉm cười. Ngay lúc ấy, từ nơi cửa miệng của đức Thế Tôn, có 8 triệu 400 ngàn tia sáng tỏa ra. Những tia sáng ấy có nhiều màu, nhiều sắc, có hàng trăm ngàn màu sắc khác nhau, như là màu xanh lam, vàng, đỏ, trắng trong, đỏ sẫm như rễ cây mộc, pha lê, và bạc. Những tia sáng ấy chiếu rọi khắp vô lượng vô biên các thế giới, rồi lại quay về, nhiễu quanh đức Thế Tôn ba vòng, và biến mất trên đỉnh đầu của đức Thế Tôn.


216. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y lên một bên vai, quỳ gối phải chạm đất, hướng về phía đức Thế Tôn, chắp tay, và thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, nhân là gì? Duyên là gì khiến đức Thế Tôn mỉm cười? Bởi vì các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, không bao giờ mỉm cười một cách không có nhân duyên.


Đức Thế Tôn nói rằng:


Này Dược Quân, ông có thấy trong khắp bốn phương, nơi các thế giới, mọi người đang đến xung quanh để hội tụ về trước Ta không?


Dược Quân thưa:


Thưa đức Thế Tôn, con thấy.


Đức Thế Tôn nói:


Vậy thì, này Dược Quân, hãy quán sát kỹ, hãy nhìn đám người ấy.


217. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, sau khi quan sát, đã thấy ở phương Đông có một cây hiện ra, có kích thước lớn bằng 7.000 yo-ja-na. Ở phía dưới cây ấy, có 2 tỷ 500 ngàn người đã tụ hội, và cùng đi đến thế giới Sa-ha này. Sau khi đến, họ đãnh lễ chân đức Thế Tôn, nhiễu quanh đức Thế Tôn ba vòng theo chiều bên phải, rồi ngồi tại hướng Đông trong pháp hội. Những người ấy không nói, không bàn tán, không trò chuyện, không đối thoại, không ăn uống, không đứng dậy, không đi qua lại, mà chỉ ngồi kiết già, nhập chánh định sâu sa-ma-dhi, an trụ trong trạng thái hoàn toàn im lặng và tĩnh lặng.


Ở phương Nam, cũng thấy có một cây hiện ra, có kích thước là 7.000 yo-ja-na. Ở phía dưới cây ấy, có 2 tỷ 500 ngàn người đã tụ hội, và cùng đi đến thế giới Sa-ha này. Sau khi đến, họ đãnh lễ chân đức Thế Tôn, nhiễu quanh đức Thế Tôn ba vòng theo chiều bên phải, rồi ngồi tại hướng Nam trong pháp hội. Những người ấy không nói, không bàn tán, không trò chuyện, không đối thoại, không ăn uống, không đứng dậy, không đi qua lại, mà chỉ ngồi kiết già, nhập chánh định sâu sa-ma-dhi, an trụ trong trạng thái hoàn toàn im lặng và tĩnh lặng.


Ở phương Tây, cũng thấy có một cây hiện ra, có kích thước là 7.000 yo-ja-na. Ở phía dưới cây ấy, có 2 tỷ 500 ngàn người đã tụ hội, và cùng đi đến thế giới Sa-ha này. Sau khi đến, họ đãnh lễ chân đức Thế Tôn, nhiễu quanh đức Thế Tôn ba vòng theo chiều bên phải, rồi ngồi tại hướng Tây trong pháp hội. Những người ấy không nói, không bàn tán, không trò chuyện, không đối thoại, không ăn uống, không đứng dậy, không đi qua lại, mà chỉ ngồi kiết già, nhập chánh định sâu sa-ma-dhi, an trụ trong trạng thái hoàn toàn im lặng và tĩnh lặng.


Ở phương Bắc, cũng thấy có một cây hiện ra, có kích thước là 7.000 yo-ja-na. Ở phía dưới cây ấy, có 2 tỷ 500 ngàn người đã tụ hội, và cùng đi đến thế giới Sa-ha này. Sau khi đến, họ đãnh lễ chân đức Thế Tôn, nhiễu quanh đức Thế Tôn ba vòng theo chiều bên phải, rồi ngồi tại hướng Bắc trong pháp hội. Những người ấy không nói, không bàn tán, không trò chuyện, không đối thoại, không ăn uống, không đứng dậy, không đi qua lại, mà chỉ ngồi kiết già, nhập chánh định sâu sa-ma-dhi, an trụ trong trạng thái hoàn toàn im lặng và tĩnh lặng.


Ở phương Trên, cũng thấy có một cây hiện ra, có kích thước là 7.000 yo-ja-na. Ở phía dưới cây ấy, có 2 tỷ 500 ngàn người đã tụ hội, và cùng đi đến thế giới Sa-ha này. Sau khi đến, họ đãnh lễ chân đức Thế Tôn, nhiễu quanh đức Thế Tôn ba vòng theo chiều bên phải, rồi ngồi tại phương Trên trong pháp hội. Những người ấy không nói, không bàn tán, không trò chuyện, không đối thoại, không ăn uống, không đứng dậy, không đi qua lại, mà chỉ ngồi kiết già, nhập chánh định sâu sa-ma-dhi, an trụ trong trạng thái hoàn toàn im lặng và tĩnh lặng.


Ở phương Dưới, cũng thấy có một cây hiện ra, có kích thước là 7.000 yo-ja-na. Ở phía dưới cây ấy, có 2 tỷ 500 ngàn người đã tụ hội, và cùng đi đến thế giới Sa-ha này. Sau khi đến, họ đãnh lễ chân đức Thế Tôn, nhiễu quanh đức Thế Tôn ba vòng theo chiều bên phải, rồi ngồi hướng đối diện với đức Thế Tôn trong pháp hội. Những người ấy không nói, không bàn tán, không trò chuyện, không đối thoại, không ăn uống, không đứng dậy, không đi qua lại, mà chỉ ngồi kiết già, nhập chánh định sâu sa-ma-dhi, an trụ trong trạng thái hoàn toàn im lặng và tĩnh lặng.


218. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, con mong được hỏi với đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, một câu hỏi nhỏ, nếu như đức Thế Tôn cho phép và trả lời câu hỏi đó.


Sau khi nghe vậy, đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Dược Quân rằng:


Này Dược Quân, hãy hỏi đi, nếu như ông mong muốn, ta sẽ dùng lời giải đáp cho từng câu hỏi được hỏi để làm hoan hỷ tâm ông.


219. Khi đã được đức Thế Tôn cho phép, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, liền thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, việc này là sao? Tại sao trong khắp bốn phương, nơi các thế giới, mọi người lại đến xung quanh để hội tụ về trước đức Thế Tôn? Cho đến phương dưới và phương trên, đã có 5 tỷ chúng sinh cũng đã đến xung quang để hộ tụ về trước đức Thế Tôn?


Nhưng những người ấy không nói chuyện với đức Thế Tôn, không đàm luận, không trò chuyện, không nói năng, không phát biểu, không đứng dậy, không đi qua lại, mà chỉ ngồi kiết già, nhập chánh định sâu sa-ma-dhi, an trụ trong trạng thái hoàn toàn im lặng và tĩnh lặng.


Thưa đức Thế Tôn, đâu là nguyên nhân? Đâu là duyên cớ?


Đức Thế Tôn dạy rằng: Này Dược Quân, ông hãy tự mình đến và hỏi các đức Như Lai ấy. Vì chính từ các thế giới ấy mà những người ấy đã đến.


Bồ Tát Dược Quân hỏi: 


Thưa đức Thế Tôn, bằng năng lực thần thông của ai con có thể đi đến được? Là bằng thần lực của Như Lai, hay là bằng thần lực của chính con?


Đức Thế Tôn nói rằng: 


Này Dược Quân, hãy đi bằng chính năng lực thần thông của ông. Và rồi, hãy trở về bằng năng lực thần thông của Như Lai.


220. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, sau khi nhiễu quanh ba vòng đức Thế Tôn theo chiều bên phải, với sự giữ gìn trong sạch ba nghiệp thân khẩu ý hoàn toàn tĩnh lặng, liền biến mất tại nơi ấy.


Rồi từ thế giới này, vượt qua 960 tỷ thế giới, có một thế giới tên là Can-đrā-va-tī. Trên hành tinh ấy, mặt trăng chính là nguồn sáng chiếu rọi nơi ấy nên được gọi là Chiếu Sáng Như Mặt Trăng, có đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đang an trụ, đang tồn tại, và đang giảng dạy giáo pháp có tên là Can-dra-pra-đī-pā - Nguyệt Đăng (Đèn Mặt Trăng). Đức Như Lai ấy hiện đang thuyết pháp, được vây quanh và là người dẫn đầu 800 tỷ các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát. Và Bồ Tát Dược Quân đã đến thế giới đó.


221. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, liền đến gần nơi đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai. Sau khi đến gần, ngài cúi đầu đảnh lễ nơi bàn chân của đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, đang ngự tại cõi Can-drā-va-tī, rồi đứng trước mặt. Sau khi đứng yên, ngài hướng đến đức Thế Tôn, chắp tay đảnh lễ, rồi thưa với đức Thế Tôn rằng:


Con đã đến, thưa đức Thế Tôn, sau khi vượt qua 960 tỷ thế giới, từ cõi Phật của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai trong thế giới Sa-hā. Thế nhưng, thưa đức Thế Tôn, con không thấy ở nơi nào lại có chúng sinh đông đảo như vậy, như con đã thấy tại đó.


Thưa đức Thế Tôn, nguyên nhân là gì, và duyên là gì, mà tại thế giới Sa-hā, trước mặt của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, lại có rất nhiều đại chúng tụ hội từ mười phương đến?


Con thấy họ đã từng từ cõi Phật của đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai đến, và hiện diện tại thế giới Sa-ha của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, nhưng nay con đang ở đây, thì lại không thấy họ nữa.


222. Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai nói rằng: Chính ở thế giới Can-drā-va-tī này, này Dược Quân, họ được sinh ra, và khi biết đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở thế giới Sa-ha đang thuyết bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, nên họ đã sang và trú tại thế giới Sa-ha đó trước mặt đức Thế tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai.


Bồ Tát Dược Quân thưa: 


Thưa đức Thế Tôn, ở tại cõi này, bằng cách nào chúng sinh được sinh ra?


Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai đáp: 


Ở tại cõi này, này Dược Quân, chúng sinh được sinh ra từ hoá sinh, họ được sinh ra từ cây không có tri giác.


Bồ Tát Dược Quân thưa: 


Thưa đức Thế Tôn, con chưa từng thấy hay nghe rằng từ một cây vô tri lại có thể sinh ra con người?


Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai nói: 


Này Dược Quân, ông chưa từng thấy hay nghe rằng từ cây vô tri mà có thể sinh ra con người phải không?


Bồ Tát Dược Quân thưa: 


Đúng thật vậy, thưa đức Thế Tôn, con chưa từng thấy và chưa từng nghe rằng từ cây vô tri mà có thể sinh ra con người.


Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai nói: 


Này Dược Quân, ông có muốn thấy điều đó không? Vậy thì ngay bây giờ, ta sẽ cho ông thấy.


Bồ Tát Dược Quân thưa: Con muốn thấy, thưa đức Thế Tôn, con muốn thấy, thưa đức Thiện Thệ.


223. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai tại cõi Can-drā-va-tī, vào thời điểm ấy, duỗi cánh tay của chính mình, cánh tay được trang nghiêm bởi trăm công đức. Và từ cánh tay ấy, hàng ngàn tỷ người xuất hiện. Mỗi người trong đại chúng ấy đều dang ra trăm cánh tay, dùng các loại hương thơm và dầu thơm khác nhau để rải lên thân đức Như Lai.


Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai, tại cõi Can-drā-va-tī ấy, gọi Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát và nói rằng:


Này Dược Quân, ông có thấy mọi người trong đại chúng ấy đang rải các loại hương, hoa, hương thơm khác nhau lên thân đức Như Lai chăng?


Bồ Tát Dược Quân thưa: 


Con đã thấy, thưa đức Thế Tôn, con đã thấy, thưa đức Thiện Thệ.


Đức Thế Tôn nói: 


Những người vừa hiện khởi trong đại chúng này, là những vị đã tái sinh trở lại trong loài người ở tại cõi Can-drā-va-tī này, hoặc họ là người từ thế giới khác tái sinh về đây, mà tâm đã thoát ly mọi vọng tưởng, không còn bị tham ái và phiền não trói buộc, họ là những bậc vô niệm, tịch tĩnh, đã vượt thoát các pháp hư vọng. Họ hoàn toàn là người sống bằng Tánh Không, Vô Tướng, Vô Nguyện và Niết Bàn tịch tịnh, là những người đầy đủ Tuệ Giác Bát Nhã, họ có thần thông, có tự tánh Trí Tuệ Toàn Tri, và sống bằng Trí Tuệ Toàn Giác. Sau khi từ bỏ thân người này, và tái sinh vào đời sau, thì đó là đời sống cuối cùng của họ trước khi thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trở thành một vị Phật Toàn Giác.


Lúc bấy giờ, từ mỗi một vị trong số hàng ngàn tỷ vị, với trăm cánh tay mà các vị ấy có, tất cả đều vung rộng ra, và tỏa khắp nơi, cùng đều mang các loại hương, hoa, hương thơm khác nhau để cúng dường đức Như Lai.


224. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, thấy cảnh tượng ấy, liền thưa với Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai rằng:


Thưa đức Thế Tôn, thưa đức Thiện Thệ, hiện tượng này là gì, vì sao chỉ trong khoảnh khắc, từ mỗi một vị trong số hàng ngàn tỷ vị, với trăm cánh tay mà các vị ấy có, tất cả đều vung rộng ra, và tỏa khắp nơi, cùng đều mang các loại hương, hoa, hương thơm khác nhau để cúng dường đức Như Lai?


Nếu như những người có trăm cánh tay, thân thể đồ sộ phức tạp mà còn có khả năng chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì huống chi những con người chỉ có hai tay, thân thể gọn gàng uyển chuyển, lại có thể thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác còn nhanh đến mức nào nữa?


Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai nói rằng: 


Đúng như vậy, này Dược Quân, các chúng sinh được sinh ra, mà tâm đã thoát ly mọi vọng tưởng, không còn bị tham ái và phiền não trói buộc, là những bậc vô niệm, tịch tĩnh, đã vượt thoát các pháp hư vọng, hoàn toàn là người sống bằng Tánh Không, Vô Tướng, Vô Nguyện và Niết Bàn tịch tịnh, là những người đầy đủ Tuệ Giác Bát Nhã, có thần thông, có tự tánh Trí Tuệ Toàn Tri, và sống bằng Trí Tuệ Toàn Giác. Rồi lại cũng từ trạng thái tâm đã thoát ly mọi vọng tưởng, không còn bị tham ái và phiền não trói buộc, và sống bằng Trí Tuệ Toàn Giác ấy, sau khi thân hoại mạng chung, họ tái sinh về các cõi Phật. Trạng thái an lạc và hạnh phúc ấy tồn tại, hiện hữu nơi họ, cho đến khi thành một đức Phật Toàn Giác.


Hãy quan sát thật kỹ, này Dược Quân, rõ ràng các chúng sinh được sinh ra trong giải thoát và chết đi trong giải thoát, nhưng chỉ do trí tuệ mờ tối, tuệ giác Bát Nhã yếu kém, vọng tưởng phiền não, mắc kẹt vào chấp ngã, ác nghiệp sâu dày nên mới phải chịu đủ các cảm thọ khổ đau.


Ngay cả thân thể của chúng ta, này Dược Quân, cũng nên được xem là một vật vô tri. Thân thể này bản chất do bốn đại Địa, Thuỷ, Hoả, Phong hợp lại thành. Bốn đại vô tri, nên thân thể này cũng vô tri. Bốn đại vốn thanh tịnh, không có vọng tưởng phiền não, chỉ do nghiệp từ trong tâm thức của chúng sinh mà hình thành thân thể. Do có thần kinh và tâm thức nên chúng sinh mới có các cảm thọ. Những chúng sinh trồng các điều lành, làm các thiện nghiệp, thì thần kinh và tâm thức của họ sinh ra các cảm thọ an lạc và hạnh phúc, thân thể của họ dần dần cũng được tươi sáng, đầy đủ. Những chúng sinh trồng các điều ác, làm các việc ác, thì thần kinh và tâm thức của họ sinh ra các cảm thọ khổ đau, khó chịu, nóng giận và si mê, thân thể họ dần dần cũng trở nên tối ám, thiếu khuyết. Từ các nghiệp của tâm thức mà hình thành thân, và một khi thân được hình thành, thì thân ấy trở lại trói buộc tâm thức, như một vòng lặp khép kín trong luân hồi.


Tâm thức của chúng sinh vốn thanh tịnh, đầy đủ Tuệ Giác Bát Nhã, và trí tuệ Toàn Tri, nhưng chỉ do rừng bụi phiền não che đậy, nên không thấy được. Một khi thần thức đã rời thân thể, thì thân này không khác gì một khúc gỗ mục ruỗng, hư hoại.


Những chúng sinh trồng hạt giống Tỉnh Thức trong tâm thức của họ nơi thân này, vun bón, xới tưới để cây Tỉnh Thức phát triển, thì thân này càng tốt tươi, và trong tương lai, hoa Tỉnh Thức, quả Toàn Giác sẽ trổ đầy nơi tâm của người ấy, cho đến khi trở thành một đức Phật Toàn Giác, thì thân này của người ấy cũng đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.


Bồ Tát Dược Quân thưa rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, trong số những người trong chúng hội này đây, có người nào là người trẻ tuổi, có người nào là người lớn tuổi không?


Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai nói rằng: 


Có đấy, này Dược Quân, có những người là người trẻ tuổi, có những người là người lớn tuổi.


Bồ Tát Dược Quân thưa rằng: Ai là người trẻ tuổi, thưa đức Thế Tôn, và ai là người lớn tuổi?


Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai nói rằng: 


Những người hiện giờ có cánh tay đều vung rộng ra, và tỏa khắp nơi, cùng đều mang các loại hương, hoa, hương thơm khác nhau để cúng dường Như Lai, là những người lớn tuổi, còn những người mới sinh ra từ các cây là những người trẻ tuổi.


Bồ Tát Dược Quân thưa rằng: Con mong muốn, thưa đức Thế Tôn, được thấy các chúng sinh trẻ tuổi ấy.


225. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai, tại cõi Can-drā-va-tī ấy, liền duỗi lòng bàn tay phải.


Bấy giờ, từ mười phương trong cõi Can-drā-va-tī ấy, có hàng ngàn tỷ người vừa được từ các cây sinh ra, liền vân tập đến. Và, từ phương dưới và phương trên, cũng có 500 triệu người vừa được các cây sinh ra cũng đến.


Sau khi đến nơi, những chúng sinh ấy đều cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, nhưng không nói chuyện với đức Như Lai, không giao tiếp với nhau, mà tất cả đều ngồi với tư thế kiết già, nhập vào định sâu sa-ma-dhi, đều an trụ trong trạng thái hoàn toàn yên lặng và tĩnh lặng.


226. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát liền thưa với đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai rằng:


Thưa đức Thế Tôn, vì lý do gì mà những chúng sinh này không trò chuyện, không giao tiếp với đức Như Lai, mà tất cả đều ngồi với tư thế kiết già, nhập vào định sâu sa-ma-dhi, đều chỉ an trụ trong trạng thái hoàn toàn yên lặng và tĩnh lặng?


Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai nói rằng: 


Này Dược Quân, ông không biết sao? Đó là vì tâm địa của họ đã thoát ly mọi vọng tưởng, không còn bị tham ái và phiền não trói buộc, là vô niệm, tịch tĩnh, đã vượt thoát các pháp hư vọng, hoàn toàn là người sống bằng Tánh Không, Vô Tướng, Vô Nguyện và Niết Bàn tịch tịnh, là những người đầy đủ Tuệ Giác Bát Nhã, có thần thông, có tự tánh Trí Tuệ Toàn Tri, và sống bằng Trí Tuệ Toàn Giác, nên họ không nói năng, không giao tiếp qua lại lẫn nhau, mà đều chỉ ngồi với tư thế kiết già, nhập vào định sâu sa-ma-dhi, an trụ trong trạng thái hoàn toàn yên lặng và tĩnh lặng.


Do an trú trong trạng thái hoàn toàn yên lặng và tĩnh lặng ấy từ lúc sinh ra, nên họ không nhận thức được các pháp cho các uẩn tạo thành, đó là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.


Vì sao vậy? 


Bởi vì những người trẻ tuổi ấy, này Dược Quân, không biết về sự sinh khởi, cũng không biết về sự diệt tận. Và, họ an trú trong trạng thái không có già, không có bệnh, không có sầu, không có than khóc, không có chia lìa với người thân, không phải kết hợp với điều không ưa thích, không có sự rời xa điều thương mến, không có chết, cũng không có cái chết phi thời. Ngay cả tất cả các nỗi khổ cay đắng, khổ đau khốc liệt, họ cũng không có. Thì làm sao họ có thể hiểu biết được các pháp do các uẩn tạo thành?


Vì vậy, những chúng sinh ấy, này Dược Quân, cần được rèn luyện như vậy lặp đi lặp lại.


227. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, thưa với đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai rằng:


Thưa đức Thế Tôn, những chúng sinh còn non trẻ nhỏ bé trí tuệ non nớt trên thế gian, là những chúng sinh còn mắc kẹt trong ba đường ác địa ngục, quỷ đói, và súc sinh, họ từ đâu đến? Và đi về đâu? Họ tái sinh vào đâu? Khi mà họ không biết hay không hiểu gì về Pháp?




Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai dạy rằng: 


Hãy lắng nghe, này Dược Quân, về thân thể loài người mà chúng sinh thọ nhận trên thế gian, thân ấy không phải được tạo nên bởi thợ bạc, không do thợ vải, không do thợ mộc, cũng không do thợ gốm mà tạo thành, cũng không phải do sợ hãi vua chúa mà sinh ra. Thân ấy hình thành từ sự kết hợp giữa giống cái và giống đực, kèm theo các nghiệp ác. Hơn nữa, một khi thân đã hình thành, từ lúc sinh ra và lớn lên, những chúng sinh ấy còn phải học tập các nghề nghiệp và sống với những chu kỳ lặp đi lặp lại, với vô số nỗi khổ, đau đớn cay đắng sẽ sinh khởi cho họ, và họ sẽ chịu đựng những cảm thọ cay nghiệt. Khi ấy, họ sẽ trải qua quả báo của các nghiệp ác đã tạo từ trước.


Ngay tại đây, này Dược Quân, bằng cách này, những chúng sinh còn non trẻ nhỏ bé trí tuệ non nớt ấy trên thế gian đã được sinh ra. Chính họ là người đang trải qua những cảm thọ khổ đau như thế. Bởi vì, những chúng sinh trí tuệ non nớt ấy, này Dược Quân, họ không biết điều thiện, nên không nhận biết được sự sinh khởi, cũng không nhận biết được sự diệt tận trong tâm thức của họ. 


Do không nhận biết được sự sinh khởi, sự diệt tận trong tâm thức của mình, nên họ bị chính sự sinh và diệt xảy ra trong thân và tâm lôi kéo vào vòng tròn sinh tử, một khi tâm đã nhập vào trong vòng tròn sanh tử, thì tâm ấy cũng sanh rồi diệt, diệt rồi sanh giống như vòng lửa xoay tròn. Họ không biết rằng tất cả cái được thấy đều chỉ là cảnh tượng do tự tâm hiện, nên lầm nhận những trạng thái sinh diệt ấy là chính mình, mắc kẹt vào hư vọng không thật, chấp ngã sâu nặng, bị chính cái tâm sanh diệt liên tục ấy lôi kéo, nên tạo ra bao ác nghiệp, dẫn đến khổ đau không dứt. Họ lấy khổ đau này, để muốn bỏ một khổ đau khác, và chìm sâu vào vũng lầy sanh tử, mà không biết tâm mình vốn đầy đủ Trí Tuệ Toàn Giác. Thân người rất khó có, và một khi đã mất thân người, thì họ khó mà được tái sinh vào trong thân loài người nữa, phải trôi lăn trong ba đường ác địa ngục, quỷ đói và súc sinh.


Này Dược Quân, những người này được gọi là chúng sinh còn non trẻ nhỏ bé trí tuệ non nớt.


228. Bồ Tát Dược Quân hỏi: 


Thưa đức Thế Tôn, các chúng sinh còn non trẻ nhỏ bé trí tuệ non nớt ấy, họ sinh ra như thế nào? Và họ diệt tận như thế nào?


Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai dạy rằng: 


Này Dược Quân, ví như có một người chà sát một mảnh gỗ để sinh ra lửa. Dần dần, mảnh gỗ ấy được đốt cháy bởi chính ngọn lửa do nó sinh ra.


Cũng như vậy, này Dược Quân, thân người trước tiên được sinh khởi. Sau khi đã sinh, thân ấy cảm nhận cảm thọ. Chính các cảm thọ ấy, dần dần thiêu cháy thân ấy cho đến khi diệt tận.


Bồ Tát Dược Vương hỏi:


Thưa đức Thế Tôn, ở đây, ai là người được sinh ra một cách cao quý và tốt đẹp? Ai là người được sinh ra và dập tắt hoàn toàn ngọn lửa sinh diệt đang thiêu đốt trong tâm thức của họ, đạt đến Niết Bàn hoàn toàn tịch tịnh?


Đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai đáp rằng: 


Này Dược Quân, chính đức Phật Toàn Giác là người được sinh ra một cách cao quý và tốt đẹp, là người được sinh ra và dập tắt hoàn toàn ngọn lửa sinh diệt đang thiêu đốt trong tâm thức của chính mình, và đạt đến Niết-bàn hoàn toàn tịch tịnh.


229. Lấy một ví dụ, này Dược Quân, có một vương tử phạm tội nên bị giam giữ trong một nhà ngục tối tăm, là nơi hoàn toàn bóng tối. Vương tử ấy, khi bước vào trong căn ngục tối, sẽ thấy bóng tối dày đặc, hoàn toàn không thấy gì chỉ trừ cảnh tượng tối tăm.


Khi ấy, có một người, đã từng trải qua khổ đau, trông thấy vậy, liền suy nghĩ rằng:


Người này sẽ bị chết thôi, vì không được huấn luyện để chịu khổ, và chắc chắn sẽ mất mạng thôi.


Người ấy, vì thương xót, nên mang lửa đến, rồi đặt một ngọn đuốc nhỏ bên trong căn ngục ấy.


Và vương tử ấy, đang bị giam giữ, nếu thấy được ánh sáng của ngọn lửa, và sau khi thấy, sẽ được an ủi, và tăng thêm nghị lực.


Và ngọn lửa ấy, do nguyên nhân trên nền đất nhà ngục chứa rơm khô lâu ngày để lót cho phạm nhân nằm, liền bắt lửa và bùng cháy mạnh mẽ. Do ngọn lửa bừng cháy ấy, căn ngục đó bị cháy lan khắp nơi. Và vị vương tử ấy bị thiêu cháy ngay tại nơi ấy.


Khi nghe tin vương tử ấy bị thiêu chết, vị vua rơi vào trầm tư ân hận, và nghĩ như sau: “Từ nay trở đi, ta sẽ không giam giữ bất kỳ chúng sinh nào trong lãnh thổ của ta nữa.”


Lúc bấy giờ, vị vua ấy an ủi những chúng sinh đang cư trú trong lãnh thổ của mình như sau:


“Này các hiền khanh, xin chớ lo sợ, chớ hoảng hốt. Mọi người hãy được an trú trong sự không sợ hãi.


Trong lãnh thổ của ta, từ nay sẽ không còn có hình phạt hay sự giam giữ nữa. Và ta sẽ không hủy hoại mạng sống của bất kỳ chúng sinh nào. Này các hiền khanh, hãy sống trong sự vô úy.”


230. Ở đây, này Dược Quân, qua ví dụ này, đức vua được ví như đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác khi sinh ra trên thế gian. Đức Như Lai hoàn toàn đốt cháy tất cả phiền não, đã làm lặng yên tất cả bệnh tật, đã đốt cháy toàn bộ đau khổ trong các đường sanh tử địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, như nhà ngục kia bị thiêu cháy toàn bộ. Mặc dù được sinh ra trong thế gian, nhưng đức Như Lai được sinh ra một cách cao quý và tốt đẹp, là bậc pháp vương không ai hơn được, hoàn toàn tự tại trong địa giới Như Lai của chính mình, đầy đủ bốn trí vô ngại, mười tám pháp bất cộng và mười lực của Như Lai.


Vương tử phạm tội được hiểu là tất cả chúng sanh phàm phu ngu si, trí tuệ non nớt. Tất cả họ đều là con của Như Lai, đều được Như Lai thủ hộ không thiên lệch. Do họ trồng các điều ác, làm các nghiệp ác, nên tâm thức của họ bị giam giữ trong nhà ngục tối tăm, không một ánh sáng, họ bị mắc kẹt trong vòng tròn sanh tử, chấp ngã sâu dày, bị tham, sân, si dày vò đau khổ, phải chịu các cảm thọ khổ đau, khó chịu, không vui, buồn khổ, cay đắng trong chính nhà ngục thân tâm do mình tạo ra. 


Ví như có người đã từng trải qua đau khổ và mang ngọn lửa nhỏ vào nhà ngục để soi sáng người kia, chính là các nhà luận thuyết ngoại đạo, những người tu hành theo trường phái ngoại đạo. Tâm trí họ vẫn còn nằm trong ngục tối vô minh, không có ánh sáng trí tuệ, phải chịu cảnh khổ đau không dứt, nhưng họ lại muốn dùng cái ánh sáng hiểu biết như ngọn lửa nhỏ ấy để thắp sáng cho người khác, họ tự tạo ra các luận thuyết để giảng dạy cho thế gian. Những luận thuyết đó là pháp thế gian, như ngọn lửa nhỏ bắt lấy rơm rác phiền não, tạo thành một trận hoả hoạn thiêu đốt chúng sinh, đưa người học theo chìm sâu trong vũng lầy sanh tử, làm hại người khác không cách nào thoát ra được, như người kia bị lửa thiêu chết. Và đến khi đã chết, người ấy cũng không thể thoát khỏi nhà ngục vô minh. Như con tằm nhả tơ tự trói chính mình, cũng vậy, các ngoại đạo tự tạo luận thuyết thế gian để tự trói chính mình, và còn trói buộc người khác, họ chìm trong tà kiến, lại khiến người khác cũng bị chìm trong tà kiến. Họ bị nhốt trong ngục tối vô minh, cũng khiến cho người khác cũng bị nhốt trong ngục tối vô minh.


Ví như đức vua sau khi nghe tin vương tử bị thiêu chết trong nhà ngục, liền suy nghĩ từ nay không giam giữ bất kỳ chúng sanh nào trong lãnh thổ của ta nữa, và khuyến khích tất cả các chúng sinh đang cư trú trong lãnh thổ của vị vua chớ sợ hãi, và khuyên các chúng sinh hãy giống trong trạng thái vô uý, chính là đức Như Lai, hành động vì lợi ích, vì an lành, và hạnh phúc của tất cả chúng sinh. Ngài giải thoát các chúng sinh khỏi các khổ nạn như sát hại, giam giữ, và cầm tù trong ngục tối vô minh, hoàn toàn đạt được các định, thần thông như ý, tự tại vô ngại, và phương tiện thiện xảo.


Đức Như Lai, là bậc đã đoạn trừ hoàn toàn cấu uế của tham dục, sân hận và si mê, xuất hiện trong thế gian như một ngọn đèn chiếu sáng cho tất cả chúng sinh, giải thoát chúng sinh khỏi các cõi: địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, và a-tu-la, giải thoát cả những chúng sinh trẻ tuổi và những chúng sinh lớn tuổi.


Sau khi nghe được bài giảng pháp như vậy, Bồ Tát Dược Quân đảnh lễ sát chân đức Thế Tôn Nguyệt Đăng Như Lai. Lúc bấy giờ, bằng thần lực của Như Lai, Bồ Tát Dược Quân liền biến mất tại cõi Can-drā-va-tī ấy, và xuất hiện tại thế giới Sa-ha này.


231. Ngay lúc ấy, từ không trung phía trên, những bài kệ sau đây được Bồ Tát Dược Quân vang lên trong pháp hội của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai:


76. Ôi! Đây thật là một thánh địa, 

Một cõi nước của Bậc Chiến Thắng,

Thánh địa này thật rất tốt lành, 

Được trang nghiêm tài tình khéo léo.

Tại nơi đây, ai gieo hạt giống,

Chắc chắn sẽ không bị hoại diệt.


77. Đây là cõi nước của đức Phật, 

Là cõi nước của Bậc Chiến Thắng,

Giáo pháp chiến thắng thật cao quý.

Đấng Giáo Chủ khéo dùng phương tiện,

Để nhiếp hóa tất cả chúng sinh.


78. Ngài an trú trong cõi Niết-bàn,

Nhưng vẫn thị hiện nơi thế gian.

Ngay sau khi thế gian tịch lặng,

Đức Phật thanh tịnh hoá phương Nam.


79. Ngài giải thoát chúng sinh trẻ tuổi,

Cũng giải thoát chúng sinh lớn tuổi.

Lần lượt giúp tất cả chúng sinh,

Thoát ra khỏi luân hồi ba cõi.


80. Các cửa địa ngục bị khóa kín,

Và hôm nay đã được mở tung,

Súc sinh, ngạ quỷ được giải thoát.

Sự an tịnh đã được thiết lập,

Khắp tất cả trong thế gian này,

Và an lập hạnh phúc đời sau.


232. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn mỉm cười, rồi nói rằng:


81. Lành thay thấy được Thiện tri thức,

Lành thay thấy được các đức Phật.

Lành thay đức lành của chánh pháp,

Lành thay thấy được Tăng hoà hợp,

Khắp mọi nơi trong cõi chư Phật.


82. Lành thay Cách Tích Luỹ Chánh Pháp,

Đưa đến tiêu trừ mọi điều ác.

Những ai sẽ lắng nghe lời dạy này,

Sẽ đạt đến quả vị tối thượng.


233. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát từ trên không trung, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, nhân là gì và duyên là gì khiến đức Thế Tôn mỉm cười?


Đức Thế Tôn đáp: 


Này thiện nam tử, ông có thấy những chúng sinh trẻ tuổi này chăng?


Bồ Tát Dược Quân thưa: Thưa đức Thế Tôn, con thấy, thưa đức Thiện Thệ , con thấy.


Đức Thế Tôn nói: 


Tất cả những chúng sinh trẻ tuổi này, này Dược Quân, ngay hôm nay sẽ trở thành các vị Bồ Tát an trụ trong tầng địa thứ mười.


234. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát liền đứng nơi không trung phía trên, cao 80.000 yojana, cùng với 800 tỷ các thiên tử cõi trời liền mưa hoa xuống trên đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Những chúng sinh trẻ tuổi ấy, khi thấy cảnh tượng đó, đều chắp tay và đảnh lễ.


235. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, đang đứng giữa hư không, cất tiếng nói như vậy và bài kệ của đức Thế Tôn vang khắp 3000 đại thiên thế giới. 32 loại chúng sinh đang thọ khổ trong địa ngục lớn nghe được âm thanh ấy. 32 cõi trời cũng nghe được âm thanh ấy. Toàn thể 3000 đại thiên thế giới rung động với sáu loại chấn động lớn.


84.000 Long Vương trong đại hải đều bị khuấy động. 300 tỷ chúng quỷ La sát rāk-ṣa-sa đến hội tụ nơi cõi Jam-bū-đvī-pa này. 250 tỷ chúng cô hồn, quỷ đói, dạ xoa, la-sát đến từ kinh thành A-ṭa-ka-va-tī, tất cả đều tụ hội trước Đức Thế Tôn, hình thành nên một đại hội vĩ đại.


236. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai đang thuyết pháp cho những chúng sinh còn non trẻ nhỏ bé trí tuệ non nớt trong pháp hội. Khi ấy, trong hàng ngàn triệu tỷ tỷ thế giới ở mười phương, có vô số các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát từ nơi ở của mình đều dùng thần thông mà đi đến thế giới Sa-ha này.


Lúc ấy, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, từ trên không trung, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, thưa đức Thiện Thệ, có rất nhiều Bồ Tát đã tụ hội và đang an tọa trong pháp hội này.


Lại nữa, thưa đức Thế Tôn, có rất nhiều chư thiên và long thần cũng đã tụ hội và đang an tọa trong pháp hội này.


Lại nữa, có vô số loài quỷ la-sát rāk-ṣa-sa, Dạ xoa, quỷ đói, và cô hồn cũng đã đến từ vương thành A-ta-ka-va-tī, tụ hội trong pháp hội này và an tọa để nghe pháp.


237. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn gọi Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát và nói rằng: “Hãy đến đây, thiện nam tử!”


Lúc ấy, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát dùng thần lực từ trên hư không hạ xuống, đến chỗ đức Thế Tôn, chắp tay cung kính, và thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, ‘Pháp uẩn’ - Tập hợp Chánh pháp (dharmaskandha) là gì? Thưa đức Thế Tôn, vì sao lại gọi là pháp uẩn? Số lượng là bao nhiêu thì có thể được gọi là pháp uẩn?


Đức Thế Tôn đáp rằng: 


Này thiện nam tử, ‘Pháp uẩn’ được nói đến như sau:


Người nào tìm cầu đời sống phạm hạnh, sống đời phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, và sau đó từ bỏ tất cả điều ác, người ấy được gọi là hành trì pháp uẩn, là người đang tập hợp Chánh pháp.


Này thiện nam tử, ông có thấy những chúng sinh còn non trẻ nhỏ bé trí tuệ non nớt hiện đang trong pháp hội này, đã từ bỏ lối sống phi phạm hạnh chăng?


Bồ Tát Dược Quân thưa: Thưa đức Thế Tôn, con thấy, thưa đức Thiện Thệ, con thấy rõ điều ấy.


Đức Thế Tôn nói: 


Những vị ấy chắc chắn sẽ đạt được năng lực trì giữ chân lý (dhāraṇī). Và họ sẽ thành tựu đầy đủ tất cả các pháp.


Bồ Tát Dược Quân thưa: 


Thưa đức Thế Tôn, bằng phương tiện nào mà nhiều chúng sinh như vậy đã tụ hội để nghe pháp uẩn?


238. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn gọi Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát và nói rằng:


Này Dược Quân, có vô số chúng sinh, những người chưa từng nghe rằng sự sinh ra là khổ, cũng chưa từng nghe rằng sự già là khổ, chưa từng nghe rằng bệnh tật là khổ, cũng chưa từng nghe rằng buồn rầu là khổ, than khóc là khổ, xa lìa người thân yêu là khổ, và hội ngộ với người không ưa thích là khổ, còn cái chết thì lấy đi tất cả, là cái khổ đau nhất trong mọi khổ đau.


Này Dược Quân, sự sống của thân này được gọi là tập hợp của tất cả các khổ.


239. Lúc ấy, các thiếu niên trẻ tuổi đang ở trong pháp hội, sau khi nghe lời chỉ dạy này, họ đến chỗ đức Thế Tôn, chắp tay cung kính, và thưa với đức Thế Tôn rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, chúng con cũng sẽ phải chết chăng?


Đức Thế Tôn đáp: 


Này các con, các con cũng vậy, cùng với tất cả chúng sinh, cũng đều phải chết.


Các thiếu niên trẻ tuổi ấy thưa rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, cái chết đến như thế nào?


Đức Thế Tôn nói:


Vào lúc cận tử, này các con, trong thức sau cùng, có một loại gió gọi là sự diệt tận của thức (vijñāna-nirodhaḥ), một loại gió khác tên là sự rối loạn của thức (vijñāna-vibhramaḥ), và một loại gió nữa gọi là gió đi kèm sự chấn động của thức (vijñāna-saṃkṣobha-saṃyuktaḥ) – ba loại gió này, này các con, vào lúc cận tử, trong thức cuối cùng, sẽ dấy động, chấn động và gây ra sự dao động lớn.


Các thiếu niên trẻ tuổi thưa rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, những loại nào vào thời điểm diệt tận của thức lúc lâm chung sẽ làm hủy hoại thân thể?


Đức Thế Tôn đáp: 


Có ba loại lực như sau: loại gọi là lưỡi dao (śastrakaḥ), loại gọi là mũi kim (sūcakaḥ), và loại gọi là vật nặng thô (sthīlakaḥ); chính ba loại này làm hủy hoại thân thể.


Các thiếu niên trẻ tuổi thưa: 


Thưa đức Thế Tôn, cái gọi là ‘thân thể’ này là gì?


Đức Thế Tôn đáp:


Có các loại lực sau đây, tổng hợp lại gọi là thân thể:


  • Một loại lực gọi là thiêu đốt (ādīptakaḥ);

  • Một loại lực gọi là thiêu cháy toàn thân (dahana-vāsakaḥ);

  • Một loại lực gọi là bức bối nhơ nhớp (meḍikaḥ);

  • Một loại lực gọi là gây cảm xúc ái nhiễm (śṛṅgārikaḥ);

  • Một loại lực gọi là giống như thi thể nơi nghĩa địa (śmaśānikaḥ);

  • Một loại lực gọi là ngu si, tà kiến, làm suy giảm trí tuệ (durbuddhikaḥ);

  • Một loại lực gọi là tạo cảm giác nặng nề, nặng nhọc về thể xác (bhāra-gurukaḥ);

  • Một loại lực gọi là bị dày vò bởi giới tính, dòng giống, huyết thống và cấu tạo tế bào (jāti-paripīḍitaḥ);

  • Một loại lực gọi là bị khuấy động bởi hệ gene, phân loại cấp độ phân tử của vật chất cấu tạo thân thể (jāti-saṃkṣubhitaḥ);

  • Một loại lực gọi là bị hao mòn, gây tổn hại đến sự sống khi tuổi thọ dần tăng (jīvita-paribhāvikaḥ);

  • Một loại lực gọi là hoàn toàn chấm dứt tính liên kết, ly biệt với các cơ quan chức năng gắn kết mật thiết trong cơ thể khi chết đi (maraṇa-priya-viprayogakaḥ).


Những loại lực này, kết hợp toàn diện với nhau, được gọi là ‘thân thể’.


240. Các thiếu niên trẻ tuổi ấy thưa: 


Thưa đức Thế Tôn, thế nào là chết? Và thế nào là sống?


Đức Thế Tôn đáp: 


Này các con, cái gọi là thức (vijñāna) thì chết. Còn cái gọi là công đức, trạng thái thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu (puṇya) thì sống.


Cái gọi là “thân thể con người” là một thực thể hữu hạn, sẽ trải qua quá trình tử vong. Nó được cấu thành và liên kết chặt chẽ bởi hàng triệu dây thần kinh và gân cơ, cùng với 84.000 mạng lưới mạch máu và mao mạch, và hàng triệu lỗ chân lông. Ngoài ra, cơ thể còn được nâng đỡ bởi 12.000 chi thể, được cấu thành từ 270 khúc xương lúc còn là trẻ sơ sinh, và đến khi trưởng thành là 206 khúc xương.


Bên trong cơ thể người tồn tại khoảng 8.400 tổ hợp vi sinh vật – tức là các hệ vi sinh vật nội sinh như vi khuẩn, virus, vi nấm, giun ký sinh… sinh sống cộng sinh hoặc ký sinh. Tất cả các hệ vi sinh này đều chịu ảnh hưởng và lệ thuộc vào sự sống còn của cơ thể chủ – chúng cũng chết đi khi cơ thể chết, và quá trình phân hủy của chúng cũng được ghi nhận.


Khi con người qua đời, tất cả tế bào khi không còn nhận được trao đổi chất và dưỡng chất, đều cảm thấy cạn kiệt, tuyệt vọng và dẫn đến hoại tử. Khi các tế bào, cơ quan nội tạng dần dần hoại tử, hệ vi sinh vật nội sinh bắt đầu dao động mạnh, dẫn đến sự kích hoạt quá trình phân hủy cơ thể. Sự phân rã tạo ra môi trường tương tác, cạnh tranh và tiêu diệt lẫn nhau giữa các nhóm vi sinh vật, chúng tiêu diệt lẫn nhau để tồn tại, từ đó gây ra một loạt các phản ứng sinh hóa có tính chất đau đớn và rối loạn ở cấp độ vi sinh vật. Một số quần thể vi sinh phản ứng mạnh hơn, thể hiện như sự bùng phát của các quá trình gây thối rữa, tạo khí, và lên men mô.


Tất cả các vi sinh vật đó đều bị chi phối bởi cơ chế đấu tranh sinh tồn, và dần dần diễn ra hiện tượng “tự tiêu hóa lẫn nhau” – tức các nhóm vi sinh vật phá vỡ và tiêu thụ lẫn nhau trong quá trình cơ thể phân hủy.


Trong quá trình phân rã cuối cùng, chỉ còn lại hai dạng vi sinh vật, và chúng đấu tranh với nhau trong suốt bảy ngày. Sau thời gian đó, một chủng bị tiêu diệt hoàn toàn, còn chủng kia được “giải thoát” – tức là sống sót để phát tán ra môi trường ngoài.


Thế thì, này các con, điều nào được gọi là “pháp”?


Các con nghĩ sao? Khi tất cả các sinh vật nhỏ ấy diệt tận lẫn nhau và cơ thể hoại tử, thì có thể gọi đó là sự chết chăng?


241. Này các con, những chúng sinh phàm phu ngu si, luôn rơi vào trạng thái xung đột lẫn nhau trong chính thân thể và tâm thức của mình. Từ khi sinh ra, họ không hề biết sợ hãi sự lặp đi lặp lại của tái sinh trong tâm thức và thân thể này. Họ cũng không biết sợ bệnh tật. Họ càng không biết sợ cái chết. 


Giống như hai sinh vật nhỏ bé đang chiến đấu để sinh tồn, trong tâm thức và thân thể của người phàm phu ngu si cũng liên tục tự mình giao chiến để đấu tranh sinh tồn, tranh giành không ngừng, từ lúc sinh ra cho đến tận lúc chết.


Ta nhớ thuở quá khứ về trước, này các con, có một vị vua rất quyền uy, trọn đời sống trong dục lạc thế gian, đắm chìm vào các tài sản, địa vị, gia đình, mở rộng sự nghiệp và danh tiếng, không làm các điều lành, không trồng hạt giống Tỉnh thức. Thuở còn là đồng nhi, vị vua ấy rất thân với một người em của mình, cả hai đều cùng là vương tử. Khi đến năm mười tám tuổi, vua cha muốn truyền ngôi cho người em, nhưng người em ấy, do thấy được các hiểm hoạ trên thế gian, sự đau khổ trong các đời sống, nên đã từ bỏ vương vị, xuất gia làm một vị ẩn sĩ. Vị ấy, không bao lâu, do tinh tấn tu tập, làm trong sạch thân tâm trong thiền định, hiểu thấu pháp mười hai nhân duyên, chứng ngộ Chánh giác trở thành một vị Độc Giác Phật. Người anh, sau khi em từ chối vương vị, đã đăng quang thành vua cai trị quốc độ, nhưng trong lòng vẫn canh cánh sợ người em cướp lại vương quyền của mình, và đã gây ra rất nhiều trở ngại cho người em.


Một hôm, vị Độc Giác Phật ấy lần lượt khất thực qua cung điện nhà vua. Khi ấy đức vua thấy em mình với trang phục y phấn tảo, rách rưới, thân thể gầy gò, mặc dù cúng dường thức ăn cho em, nhưng vị vua ấy sanh tâm khinh thường, cho rằng người em không có chí lớn, sống một cuộc sống hèn hạ vô ích, và ca ngợi sự vinh quang, giàu sang, uy quyền tột bậc của chính mình. Sau khi nhận thức ăn cúng dường, vị Độc Giác Phật im lặng thọ thực và đi sâu vào núi rừng ẩn cư.


Đến lúc cận tử, vị vua ấy tâm trí hoang mang, lo sợ, rơi vào hoảng loạn, không còn nơi nào để bám víu, như người đang trôi giữa dòng nước lớn không ai cứu hộ. Mặc dù xung quanh rất đông hậu phi, vương tử, bà con, quyến thuộc, quần thần, ngự y, nhưng không một ai cứu được, ngoại trừ chỉ khóc than cho vị vua ấy. Khi ấy, vị Độc Giác Phật biết rằng anh mình, với hành nghiệp như vậy, với tâm thức như vậy, chưa từng trồng hạt giống Tỉnh Thức vào đất tâm, không làm các việc lành, sau khi thân hoại mạng chung, chắc chắn sẽ tái sinh vào địa ngục, phải chịu khổ đau khốc liệt; và sau khi nghiệp địa ngục hết, phải tái sinh vào loài quỷ đói và súc sinh, khó thể tái sinh lại vào loài người nữa. 


Lúc bấy giờ, vị Độc Giác Phật ấy đã khởi tâm đại bi, muốn cứu độ anh mình thoát khỏi khổ đau trong ba đường dữ, bèn dùng thần thông đi trên hư không, bay đến hoàng cung, đến bên giường bệnh của đức vua. Khi ấy, đức vua thấy em mình có thần thông như vậy, bèn sinh tâm hoan hỷ, tôn trọng và kính trọng hoàn toàn, và chắp tay lễ laỵ hướng về người em, xem người em như là ánh sáng.


Bấy giờ, do biết anh mình đã sinh tâm hoan hỷ, vị Độc Giác Phật nói với đức vua rằng:


Này anh, vì sao anh lại rơi vào trạng thái phó mặc, tâm trụ ảo tưởng như vậy? Lẽ nào anh chưa từng thấy những hiểm họa trong thế giới loài người ư?


Lẽ nào anh chưa từng thấy hiểm hoạ của sự sinh ra? Lẽ nào anh chưa từng thấy hiểm hoạ của già, chưa từng thấy hiểm hoạ của bệnh, hay chưa từng thấy hiểm hoạ của chết ư?


Đức vua đáp: 


Này em, nay anh xin thành tâm sám hối tất cả những lỗi lầm thuở xưa anh đã gây ra cho em, bằng tấm lòng chân thật nhất. Cả cuộc đời của anh, thấy vương quyền có, địa vị có, tài sản có, gia đình có, dục lạc có, nhưng cuối đời, ngay trong giờ phút nằm trên giường bệnh này đây, gần kề với cái chết, anh thấy tất cả những thứ ấy giống như lấy tay nắm bắt hư không, cố nắm thật chặt, nhưng chẳng còn nắm được thứ gì nữa. Những gì anh đã từng cho rằng mãi mãi thuộc về anh, sau khi anh chết, vương quyền này sẽ thuộc về người khác, lầu đài này sẽ thuộc về người khác, cỗ xe này sẽ thuộc về người khác, tài sản này sẽ thuộc về người khác, đất nước này cũng sẽ thuộc về người khác. Vợ con, bà con, quyến thuộc, quần thần này, cũng sẽ đi theo nghiệp riêng của họ, không ai có thể đi theo anh được, sau khi anh chết. 


Anh thấy chính anh đang một mình bước đi trên con đường tối tăm, thăm thẳm, không biết đâu là đích đến. Đối mặt anh là bóng tối, trạng thái cận kề cái chết, như ngọn đèn khô dầu sắp cạn, ánh sáng mạng sống chỉ còn loe lói. Anh đã thấy khổ nạn của sự sinh ra, cũng thấy khổ nạn của già và bệnh, và sau cùng là khổ nạn của chết.


Vị Độc Giác Phật lại hỏi: 


Vậy sao anh không làm những gì nên làm, không tích lũy căn lành?


Này anh, sao anh không trồng những căn lành thuộc về pháp uẩn, bằng cách tích tập Chánh Pháp, mang lại lợi ích cho cả hai đời - đời này và đời sau của anh?


Em muốn hỏi anh thêm điều thứ hai nữa:


Sao anh không tạo lập kho tàng căn lành cho chính anh, để từ đó anh có thể được giải thoát khỏi sinh, già, bệnh và chết? 


Vậy sao anh không thực hành duy thức bằng cách quán sát hướng vào tâm thức của mình?


Này anh, có phải anh đã từng nghe chăng? Tiếng đập vang vọng nơi đất tâm, nơi hạt giống Tỉnh Thức được gieo xuống?


Anh đã từng thấy những người nơi cõi Diêm-phù-đề này, đang bố thí, đang làm các việc lành công đức, họ thường sống trong trạng thái thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu, đang giữ trai giới, đang gieo trồng các hạt giống thiện căn nơi cõi của Như Lai chăng?


Anh đã từng thấy các hương thơm, hay vòng hoa, hay đèn sáng được cúng dường, hay thực phẩm ăn uống đang được dâng cúng đến đức Như Lai chăng?


Anh đã từng thấy bốn hội chúng của đức Như Lai đang được cúng dường đầy đủ chăng? Những vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam cư sĩ, và nữ cư sĩ, bốn hội chúng này, đang an trú trong chánh pháp, đang nói ra những điều lợi lạc, và đối thoại vì lợi ích và hạnh phúc chăng?


Này anh, số phận của anh không phải do trời làm ra, không phải do chư thiên làm ra, cũng không phải do bất kỳ thứ gì tạo ra, mà là chính anh, này anh, đã làm các điều lành và chẳng lành khi anh được sinh ra trên cõi Diêm Phù Đề này.


Này anh, nếu như lúc còn sống, anh làm những điều lành, thì những điều lành đó chính là sự giải thoát của anh, để anh được an ổn trong giờ phút lâm chung, và là hành trang hạnh phúc an lạc, để anh mang từ đời này sang đời khác.


Này anh, nếu như lúc còn sống, anh làm những điều chẳng lành, thì những điều chẳng lành đó chính là sự trói buộc của anh, khiến anh phải khổ đau trong giờ phút lâm chung, và là hành trang bất hạnh khổ đau, để anh mang từ đời này sang đời khác.


242. Khi đối diện với vị vua sắp chết ấy, vị Độc Giác Phật vào lúc đó, đã giảng dạy cho anh mình bằng những bài kệ như sau:


83. Đã từng thấy Như Lai xuất hiện, 

Đã từng nghe tiếng chuông chánh pháp,

Đã từng nghe pháp được thuyết giảng, 

Đưa đến sự tịch tĩnh Niết-bàn. 


84. Tại sao anh chẳng tạo phúc lành, 

Vốn mang lại an lạc đời sau?

Anh sẽ chịu đau khổ địa ngục, 

Là quả báo việc ác đã tạo.


243. Lúc bấy giờ, vị vua ấy đã đối đáp lại với vị Độc Giác Phật bằng các bài kệ như sau:


85. Con đây chính là kẻ ngu si, 

Bị dẫn dắt bởi nhiều bạn ác.

Do tâm trí mê mờ dục vọng,

Thích khoái cảm dục lạc thế gian, 

Con đã gây tạo nhiều ác nghiệp.


86. Vì dục vọng hiện hữu tâm con,

Đã đem đến quả báo khốc liệt,

Con đã làm hại nhiều chúng sinh, 

Đã tổn hại cộng đồng Tăng chúng.


87. Với nội tâm ô nhiễm, loạn động, 

Con đã phá hoại bảo tháp Phật.

Con đã thốt ra lời thô lỗ, 

Giọng cọc cằn, lời nói tục tĩu, 

Khiến mẹ con thường xuyên đau khổ.


Khi ấy vị Độc Giác Phật đã dùng bài kệ này để dự báo đời sau của đức vua, nếu không làm các việc lành trong giờ phút lâm chung cuối cùng như sau:


88. Anh đã nhận thấy các tội lỗi, 

Chính thân anh đã từng gây nên.

Anh thấy rõ mình đang tái sinh, 

Rau-ra-va địa ngục Não Nhiệt, 

Nơi khổ đau cực hình khó chịu.


89. Anh chịu đựng cảm thọ đau đớn, 

Ở địa ngục Tích Tập Saṃ-ghā, 

Cũng như trong địa ngục Pra-tā,

Nơi anh chịu nỗi khổ thiêu cháy.


89. Anh cũng sẽ trải nghiệm cảm thọ, 

Đau khổ trong địa ngục Sóng Lớn,

Từng làn sóng liên tiếp không dứt,

Các cảm thọ khổ đau ập đến.


90. Trong địa ngục tên Hoa Sen Lớn, 

Anh than khóc ở trong thống khổ.

Trong địa ngục Kā-lā-sū-tra,

Những đường kẻ cháy rực nung đỏ,

Anh sẽ tái sinh một trăm lần, 

Giữa nỗi đau kinh hoàng to lớn.


91. Những chúng sinh ở trong địa ngục,

Và đang bị khổ đau hủy hoại, 

Một lần nữa thấy nỗi kinh hoàng.

Trong khoảng cách một trăm do-tuần, 

Anh tiếp tục bị khủng hoảng lớn.


92. Anh không còn tìm thấy lối thoát, 

Bị nung đốt ở trong ngục đồng.

Có địa ngục tên là Kṣū-ra, 

Nơi chứa ngàn lưỡi dao sắc bén,

Thân thể anh sẽ bị băm nát,

Nỗi thống khổ tột cùng anh chịu.


93. Trăm, và ngàn, rồi triệu lưỡi dao, 

Mọc tua tủa trồi từ mặt đất.

Bằng lưỡi dao vô cùng sắc bén, 

Thân thể anh sẽ bị xé toạc, 

Bởi ác nghiệp chính anh đã tạo.


94. Những trận gió dữ rất đáng sợ, 

Cắt nát toàn thân thể của anh.

Những khổ đau như vậy chắc chắn, 

Trong địa ngục anh phải nếm trải.


Khi ấy, vị vua đã đáp lại vị Độc Giác Phật bằng bài kệ như sau:


95. Tất cả chúng sinh sẽ nhìn thấy, 

Thân thể con dày vò khổ đau.

Con chiếm đoạt tài sản người khác, 

Để phục vụ nhà cửa, gia đình.


96. Các con trai, con gái của con, 

Các em trai và cả em gái,

Cùng với mẹ và cha của con, 

Và các nhóm người thân, bạn bè.


97. Những người hầu và kẻ làm công, 

Cũng như bò, gia nhân, súc vật,

Con đắm chìm trong hành vi ác, 

Với vật dụng bằng bạc và vàng.


98. Con đắm chìm trong loại vải vóc, 

Rất mịn mềm, mượt và trơn láng, 

Và trong nhà đầy sự tô điểm.

Con đã xây dựng nhà lộng lẫy, 

Với đông đảo người nam và nữ.


99.Với âm nhạc từ đàn vī-ṇā, 

Và các loại nhạc cụ được tấu, 

Với âm thanh mê hoặc cuốn hút,

Khiến tâm trí con khó điều phục, 

Và say đắm chìm trong dục lạc.

Thân thể con được thoa dầu thơm.

Những tiền bạc, của cải, thức ăn,

Và địa vị, quyền thế, vinh quang,

Con đã cho nhiều người cùng hưởng,

Họ đã nhận nhiều sự giúp đỡ,

Mà đến nay kẻ ấy vô ơn.


Khi ấy, vị vua ấy xem thân thể này như là một đối tượng được thấy, và vị vua ấy đã nói với thân thể của chính mình như sau:


100. Thân thể này, vốn thật vô tri, 

Vì ngươi mà ta bị mê lầm, 

Vì ngươi, mà ta bị lạc lối.

Ngoài ngươi, không một chúng sinh nào,

Từng là người che chở cho ta,

Và sau khi ta bỏ thân này,

Kể từ nay không còn ai nữa.


101. Khi trong thân, gió loạn dữ dội, 

Gây nên sự hành hạ thân thể,

Những vị ngon, được nếm bằng lưỡi, 

Nhiều thức ăn, đồ uống khoái khẩu.


102. Trên đầu ta đeo nhiều tràng hoa,

Những tràng hoa đẹp đẽ đáng ưa, 

Nào biết được chúng che thân thối,

Con mắt ta bị lừa hình sắc, 

Chẳng có gì bảo vệ cho mắt. 


103. Mắt của ta chính là nguyên nhân,

Tạo điều kiện ác nghiệp tích tập, 

Vì nhìn thấy mà tạo điều ác.

Tai của ta cũng là nguyên nhân,

Tạo điều kiện ác nghiệp tích tập,  

Và mỗi lần nghe được âm thanh,

Như liên tục đánh vào màng nhĩ.


104. Trên tay ta đeo đầy vòng tay, 

Nhẫn ngón tay xiềng như bị trói.

Vòng ngọc trai từng đeo trên cổ, 

Cả chân ta cũng từng trang sức.


105. Những tấm lưới được kết từ vàng, 

Được sắp đặt khéo trên y phục.

Thân thể ta từng phủ nhiều loại, 

Châu báu cùng với vòng tay vàng.


106. Ta đã từng vui thích lạc thú,

Thích cảm giác quyền quý cao sang, 

Với khoái cảm sung sướng mê đắm, 

Cùng với những nuông chiều tâm ý.

Với xúc chạm mịn màng dễ chịu,

Mà ta đã từng được phục vụ, 

Tâm ta bị ám ảnh khát ái,

Thích đụng chạm thể xác với nhau.


107. Thân ta đã từng được vui chơi, 

Với nhiều loại giường chiếu đệm êm.

Với thân này tắm gội nước thơm,

Và thân thể sức nhiều hương liệu.


108. Với nhiều loại dầu thơm thượng hạng,

Hương hoa hồng, đàn hương cao quý, 

Cùng nhiều loại mùi hương khác nhau.

Y phục được xông ướp hương thơm,

Và nhuộm bằng màu sắc rực rỡ.


109. Thân ta được xoa dầu thơm quý, 

Chế tạo từ các loại hoa thơm, 

Su-ma-nā, và cham-pa-kā.

Thân được mặc tấm vải trắng tinh, 

Loại lụa mịn từ vùng Kā-śi.


110. Ta đã từng cưỡi trên lưng voi, 

Và ta từng leo lên lưng ngựa.

Ta đã từng nghĩ mình là vua, 

Được đám đông phục tùng phía trước.


111. Ta quen thuộc ở nơi hậu cung, 

Thành thạo trong ca hát vũ điệu.

Những con thú vô tội ta giết, 

Chỉ phục vụ sở thích của ta,

Trong những cuộc săn bắn dã ngoại. 


112. Ta không biết rằng có đời sau, 

Nên ta đã tạo nhiều ác nghiệp.

Ta từng ăn nhiều thịt thượng hạng, 

Chính vì vậy ta chịu khổ đau.


113. Ta chẳng từng nhận biết cái chết, 

Kinh hoàng nó sẽ đến với ta.

Ta đã từng ngu muội, ngu si, 

Chỉ biết mỗi nuôi dưỡng thân thể,

Mà chưa biết nuôi dưỡng tâm ta,

Điều phục nó trở nên an lạc.


Khi ấy, vị vua ấy đưa mắt nhìn sang những hậu phi, vương tử, quyến thuộc và quần thần của mình và nói rằng:


114. Hôm nay ta đến gần cái chết, 

Không còn ai có thể cứu ta.

Này hỡi các thân bằng quyến thuộc, 

Sao các người chỉ nhìn mặt ta?


115. Vì sao các người lại xé áo? 

Để làm chi những lời khóc than?

Vì sao các người lại bứt tóc? 

Máu me thì sẽ làm được gì?


116. Vì sao các người làm lấm thân? 

Sao các người lại còn đấm ngực?

Sao không ngăn ta khi còn sống,

Để ta tránh tất cả điều ác,

Giờ khóc than các người ích gì?


117. Thân thể ta sẽ là thức ăn, 

Cho chó sói, chó hoang, và quạ.

Với đủ loại giòi trùng cắn xé,

Thân thể này, được nuôi vô ích, 

Cuối cùng sẽ chỉ là thức ăn.


118. Thân thể này như thây rắn chết,

Dù sinh ra hung dữ đáng sợ,

Chỉ khi dùng đúng thuốc mới giúp,

Cứu thoát ta khỏi các sợ hãi.


119. Những gì các y sĩ cho ta,

Các thuốc men nay không hiệu nghiệm.

Và bây giờ, chỉ có thuốc Pháp,

Cứu ta khỏi rắn độc phiền não.


120. Khi ta chết, hãy cho ta Pháp,

Đừng cho ta cái không cần thiết.

Thân thể này dù được nuôi dưỡng, 

Rốt cuộc rồi cũng phải hủy hoại.


121. Tại sao ta tích tụ nghiệp ác, 

Mà sau này đem lại khổ đau?

Thân thể này đáng yêu của ta, 

Được nuôi dưỡng tài tình khéo léo, 

Cuối cùng chỉ phản bội lại ta.


122. Các con trai, con gái của ta, 

Sao nhìn ta bằng mắt thương cảm?

Hãy cứu ta khỏi cơn bệnh tật; 

Còn khóc lóc thì có ích gì?


123. Các con yêu, hỡi trai và gái, 

Giờ đây đã vong ân với cha.

Vì nuôi dưỡng các con khôn lớn, 

Ta lấy trộm của nhiều người khác.


124. Giờ đây, cái chết đã đến gần, 

Ta tuyệt vọng, ta biết làm gì?

Ta sợ hãi nỗi khổ tái sinh, 

Và đang bị cái chết dày vò.


125. Cảm thọ, tưởng, hành, và xúc chạm, 

Các cảm thọ sâu xa vi tế, 

Kẻ ngu bị xoay vần ái dục, 

Rồi cuối cùng sẽ nhận quả đắng.


126. Sự ràng buộc làm ta sầu khổ, 

Từ lúc ta đã được sinh ra,

Ở trong một gia tộc bất hạnh.

Ta biết rằng ta ít phúc đức, 

Những người khác than khóc cho ta.


127. Ta đánh mất bố thí, trì giới, 

Ta lại còn quay lưng Chánh pháp.

Người như vậy không biết luân hồi, 

Bị nhiễm độc bởi rắn phiền não.


Lúc bấy giờ, vị Độc Giác Phật ấy nói kệ với đức vua như sau:


128. Người ngu bị tà kiến quay cuồng, 

Là nơi chẳng có thể giải thoát.

Họ không biết mục đích giải thoát, 

Và luôn sống trong sự lầm lạc, 

Lại làm ra rất nhiều việc ác. 


129. Người ngu bị phiền não quay cuồng, 

Tâm trí họ thường xuyên rối loạn.

Thân thể vốn bị trói nhiều thứ, 

Bị ngọn lửa rực cháy thiêu đốt.


130. Thân thể bị mê mờ che tối, 

Cứ lang thang nơi chẳng hạnh phúc.

Mà chẳng biết hạnh phúc thật sự, 

Cái đem lại an lạc bên trong.


131. Cõi Phật của chư Phật Toàn Giác,

Chính là nơi đem lại hạnh phúc, 

Bánh xe pháp là liều thuốc lớn.

Với Giới luật, chân lý tu tập, 

Đây chính là âm thanh thiêng liêng,

Là Phạm âm từ chư Như Lai.


Lúc bấy giờ, sau khi nghe bài kệ này, vị vua ấy lòng rất hoan hỷ, hoàn toàn kính trọng, nằm trên giường, tự tay dâng cúng thức ăn cho vị Độc Giác Phật, và nói lên những lời sau đây:


“Con xin hoàn toàn quy mạng Phật, quy mạng Pháp và quy mạng Tăng.


Con nguyện dùng tất cả công đức này, hướng về đạo quả Vô Thượng Tỉnh Thức Toàn Giác, nguyện trong vô lượng đời tương lai, được tái sinh về cõi Phật, sẽ gặp chư Phật, được nghe chánh pháp, và không bao giờ xa rời con đường giải thoát.


Nguyện cho con, cùng tất cả người thân gia đình và tất cả chúng sinh, đều lìa xa tà kiến, lìa xa phiền não, lìa xa những con đường u mê tối tăm, cùng nhau thành tựu đạo quả Tỉnh Thức chân thật, dập tắt hoàn toàn ngọn lửa sinh diệt đang cháy trong tâm thức, đạt đến cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh.”


Khi vừa nói xong lời ấy, tâm vua đứng lặng, như hồ nước trong thanh tịnh, sạch trơn, không cấu bẩn. Sau khi thân hoại mạng chung, vị vua ấy được tái sanh về cõi Cực Lạc Su-kha-va-ti của đức Thế Tôn A Di Đà Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, không còn bị đọa vào ba đường ác.


224. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn gọi Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát và nói rằng:


Này Dược Quân, cũng như vậy, vào lúc lâm chung, các chúng sinh thường than khóc. 


Gặp được thiện tri thức, một bậc thánh trong giờ phút cận tử là vô cùng khó, như rùa mù gặp bộng cây nổi giữa biển khơi. Cũng như vậy, chúng sinh ít phước, không trồng căn lành, thì làm sao có thể gặp được thánh nhân trong giờ phút cận tử. Quả thật, họ sẽ không có một ai có thể cứu thoát được, ngoại trừ những kết quả của các nghiệp lành đã làm từ trước, lúc họ còn khỏe mạnh.


Ngay lúc đó, bài kệ sau đây đã được đức Thế Tôn tuyên nói:


132. Sau khi đã tạo các nghiệp ác,

Họ liền đọa vào các địa ngục.

Ở đó, họ ăn vật hôi thối,

Và uống những kim loại nung chảy.


133. Từ thân họ, than hồng mưa xuống,

Thiêu thân xác khiến họ kêu la, 

Rất đau đớn, sợ hãi khủng khiếp.

Toàn thân họ bị thiêu cháy rụi,

Trong địa ngục đáng sợ vô cùng.


134. Họ không hề biết đến an lạc,

Họ cũng không hiểu được giáo pháp.

Kẻ ngu si mê mờ trôi lăn, 

Trong phi pháp, không có thanh tịnh,

Nên không được một chút an lạc.


135. Ai đầy đủ đức tin giới hạnh,

Kết hợp với tuệ giác Bát Nhã, 

Và tinh tấn tu hành dũng mãnh,

Người ấy sẽ gần thiện tri thức,

Chóng thành tựu quả vị Như Lai.


136. Người ấy sẽ phát khởi tinh tấn,

Để cầu điều tối thượng Tỉnh Thức,

Hướng tái sinh ở trong cõi Phật,

Hãy thuyết giảng giáo pháp thiện lành,

Để nhiếp hóa tất cả chúng sinh.


137. Người ấy an trụ trong tâm từ,

Lấy đời sống phạm hạnh trong sạch,

Để làm chỗ quy y tối thượng.

Này Dược Quân, nếu nghe như vậy,

Sẽ thành người chuyên tâm hành trì.


138. Bậc Giác Ngộ, vị Phật Toàn Giác,

Có cái thấy giải thoát chơn chánh,

Là âm thanh cao quý vang khắp,

Bậc đạo sư dẫn đường thế gian,

Bậc là cha và mẹ thế gian,

Đó chính gọi là tâm Tỉnh thức.


139. Ai là người thuyết giảng Chánh Pháp,

Đó là thiện tri thức tối thượng,

Việc người ấy khó làm bậc nhất,

Thì những ai trong cõi pháp này,

Nghe chánh pháp với lòng tôn kính, 

Lòng chuyên tâm lời dạy đức Phật,

Người ấy sẽ trở thành đức Phật,

Trở thành vị Giác Ngộ Toàn Giác,

Người ấy sẽ thành bậc Thiện Thệ,

Bậc Tối Thượng ở trong loài người. 


140. Chính những người hành pháp Toàn Giác, 

Sẽ thành bậc Lãnh Đạo thế gian,

Chính là Bậc Giải Thoát chúng sinh

Vào cõi Phật hoàn toàn an tịnh,

Đối với ai khởi tâm kính Pháp, 

Đều trở thành các vị như thế.


Khi đức Thế Tôn vừa nói lời này xong, mặt đất rung chuyển dữ dội.  


245. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát thưa với đức Thế Tôn rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, vì cớ gì mà mặt đất rung chuyển và chấn động mạnh như thế?


Sau khi nghe lời ấy, đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát rằng: 


Hãy nhìn kỹ đi, này Dược Quân, ông thấy điều gì?


Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát liền quan sát. Ngay lúc ấy, Ngài nhìn về bốn phương, thấy mặt đất nứt ra. Khi mặt đất đã nứt mở, Ngài thấy từ những khe nứt trong lòng đất, có 200 triệu người được hoá sinh ra. Ở phương dưới, cũng có 200 triệu người được hoá sinh ra. Ở phương trên, cũng có 250 triệu người được hoá sinh ra.


246. Lúc bấy giờ, những chúng sinh còn non trẻ nhỏ bé trí tuệ non nớt hiện đang trong pháp hội này, sau khi quan sát, thấy được hiện tượng đó, liền thưa với đức Thế Tôn rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, những ai vừa mới được sinh ra ở tại nơi này?


Đức Thế Tôn dạy rằng: 


Các con có thấy nhóm đông người vừa được sinh ra này chăng?


Họ thưa rằng: 


Chúng con thấy, thưa đức Thế Tôn.


Đức Thế Tôn nói như sau: 


Nhóm đông người này là bằng hữu của các con vừa mới được sinh ra.


Họ thưa rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, các chúng sinh ấy rồi cũng sẽ chết, phải chăng?


Đức Thế Tôn dạy: 


Quả đúng như vậy, này các con, tất cả chúng sinh đều sẽ phải chết.


247. Lúc bấy giờ, những chúng sinh còn non trẻ nhỏ bé trí tuệ non nớt được sinh ra trước tiên, liền chắp tay hướng đến đức Thế Tôn, và thưa rằng:


Chúng con không còn đủ sức để một lần nữa thấy sự sinh ra và sự chết của chính bản thân mình, thưa đức Thế Tôn.


Đức Thế Tôn dạy rằng: 


Vậy thì, các con có thể phát khởi tinh tấn để đạt được năng lực kiên trì và sức mạnh tinh tấn chăng?


Họ thưa rằng: 


Chúng con nguyện được diện kiến đức Như Lai, được nghe lời dạy thanh tịnh vi diệu từ nơi Ngài. Chúng con mong được thấy hàng thánh chúng đệ tử Thanh Văn của đức Như Lai đang an tọa, và được thấy các vị Bồ Tát có thần lực lớn, đức hạnh cao cả.


Thưa đức Thế Tôn, trong khi mong cầu như thế, chúng con không còn đủ sức để thấy lại cảnh sinh ra và chết đi của chính bản thân mình nữa.


Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, nhờ năng lực thần thông, đứng dậy từ chỗ ngồi, cùng với năm trăm vị Bồ Tát, tất cả các vị ấy, đều dùng thần thông bay lên, đi kinh hành giữa hư không phía trên, ngồi kết già và nhập vào thiền định. Từ toàn thân họ hiện ra những con sư tử, hổ, rắn lớn, và voi. Họ biểu hiện những sự biến hóa thần thông vĩ đại, trên các đỉnh núi, ngồi kiết già và an tọa. 


Họ bay lên cao tới 20.000 yojana trên không trung (khoảng 240.000 km, bằng 62.5% quãng đường từ trái đất đến mặt trăng). Ở tại vị trí đó, không còn bị bầu khí quyển của trái đất che phủ, họ thấy được 100 tỷ mặt trời và mặt trăng cùng hiện ra.


249. Lúc bấy giờ, các chúng sinh còn non trẻ nhỏ bé trí tuệ non nớt hiện đang trong pháp hội này, thưa với đức Thế Tôn rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, nhân là gì, duyên là gì khiến ánh sáng vĩ đại của các luồng hào quang cùng với những thần biến lớn xuất hiện trong thế gian?


Đức Thế Tôn nói rằng: 


Này các thiện nam tử, các con có thấy hai thiên thể là mặt trời và mặt trăng này đã hiện ra chăng?


Họ thưa rằng: 


Chúng con thấy, thưa đức Hiền Thế Tôn, chúng con thấy, thưa đức Hiền Thiện Thệ.


Đức Thế Tôn nói rằng: 


Đây là ánh sáng rực rỡ của hai thiên thể mặt trời và mặt trăng này, và thần biến kỳ diệu được các vị Bồ Tát từ thân mình phát ra và hiển bày. Sau khi thị hiện, các vị ấy giảng dạy chánh pháp cho các chúng sinh, vì lợi ích cho nhiều người. 


Vì an lạc cho nhiều người, vì lòng bi mẫn đối với thế gian, vì lợi ích, vì an lạc và hạnh phúc của đại chúng, cả chư Thiên và loài Người, ngay trong thân người này, các vị ấy đã biểu hiện sức mạnh tinh tấn, và đang hiển bày các loại thần lực như thế.


Các chúng sinh còn non trẻ nhỏ bé trí tuệ non nớt hiện đang trong pháp hội thưa rằng: 


Xin đức Thế Tôn hãy giảng dạy chánh pháp về sự xuất hiện của ánh sáng rực rỡ.


250. Khi điều ấy được nói ra, đức Thế Tôn liền bảo với Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát rằng: 


Này Dược Quân, ông có thấy không, 3000 đại thiên thế giới đang rung động với sáu loại chấn động?


Bồ Tát Dược Quân đáp rằng: 


Con thấy, thưa đức Thế Tôn, con thấy, thưa đức Thiện Thệ. Xin đức Thế Tôn cho phép con được thưa hỏi đức Như Lai về việc này.


Đức Thế Tôn nói: 


Hãy hỏi đi, này Dược Quân, nếu như ông mong muốn, Ta sẽ giải thích từng câu hỏi của ông, làm hoan hỷ tâm ông, sẽ chỉ bày rõ ràng, sẽ phân tích tường tận. Này Dược Quân, quá khứ, vị lai và hiện tại trong ba thời, tất cả những điều ấy, Ta sẽ chỉ bày cho ông thấy.


Bồ Tát Dược Quân thưa rằng: 


Xin đức Thế Tôn hãy giảng dạy, để trừ sạch lòng nghi ngờ của con.


Ngay tại đây, thưa đức Thế Tôn, con thấy đức Như Lai, được vây quanh bởi: 84.000 thiên tử, 8.400 tỷ vị Bồ Tát, 1.200 tỷ Long Vương, 1.800 tỷ quỷ giữ hồn bhū-ta do người chết oan, và 2.500 tỷ quỷ đói và quỷ ăn thịt pi-śā-ca.


251. Đức Thế Tôn nói: 


Quả thật, này Dược Quân, những chúng sinh này, những người đang tập hợp, và an trú trước mặt Ta, trong hội chúng này, để nghe Pháp, họ ngay trong hôm nay, này Dược Quân, sẽ quay lưng lại với vòng luân hồi. Ngay trong hôm nay, họ sẽ đạt được tầng địa thứ mười. Sau khi an trú trong tầng địa thứ mười, họ sẽ dập tắt được ngọn lửa sinh diệt đang thiêu đốt trong tâm thức của họ, đạt đến cảnh giới niết-bàn tịch tịnh. Họ là những người mong cầu lợi ích cho tất cả chúng sinh, đã thực hành chánh pháp nhằm giải thoát khỏi già và chết. Họ sẽ đạt được giáo pháp Toàn Giác của đức Phật, đem lại hạnh phúc an lạc, sau khi đã chiến thắng các trói buộc phiền não.


Bồ Tát Dược Quân thưa rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, phải chăng những chúng sinh này đã sinh ra từ nhiều cảnh giới khác nhau bởi các hành nghiệp đa dạng và sai biệt của họ? Và nay họ đã vây quanh và an trú trước đức Thế Tôn?


Đức Thế Tôn nói: 


Hãy lắng nghe, này Dược Quân. 


Và ngay khi ấy, đức Thế Tôn đã nói những bài kệ sau đây:


141. Những chúng sinh si mê không biết, 

Đâu là con đường đến giải thoát.

Nhưng hôm nay, nhiều chúng sinh mới, 

Sẽ đạt được năng lực trì giữ,

Chân lý pháp tánh dhā-ra-ṇi.


142. Họ sẽ hiểu biết tất cả các pháp, 

Và đạt đến mười địa Bồ Tát.

Họ sẽ chứng đắc mười địa này, 

Và hoàn thành công hạnh Toàn Giác.


143. Họ sẽ chuyển vận bánh xe pháp, 

Và họ sẽ tuôn đổ mưa pháp.

Giáo pháp vi diệu Ta truyền dạy, 

Sẽ khiến các chúng sinh tụ hội.


144. Chư Thiên, cùng với các loài Rồng, 

Quỷ đói, A-tu-la dữ tợn,

Đều sẽ an trụ trong mười địa, 

Khi được đánh thức bởi âm vang, 

Của chánh pháp Toàn Giác Như Lai.


145. Tiếng trống pháp vang dội cùng khắp, 

Và pháp loa sẽ được thổi lên.

Ngay hôm nay, sức mạnh tinh tấn, 

Sẽ hiển lộ nơi chúng sinh mới.


146. Chính hôm nay, những chúng sinh mới, 

Sẽ chứng đắc chánh pháp Toàn Giác,

Giống y như các đức Như Lai, 

Đã chứng đắc trong thuở quá khứ.


Lúc bấy giờ, có 5000 thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ở phía xa ngoài rìa pháp hội, sau khi nghe được bài kệ thuyết pháp của đức Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng vọng từ xa về đức Thế Tôn, và thưa rằng:


147. Thân thể này, thưa đức Thế Tôn, 

Là gánh nặng, nhiều điều đáng sợ, 

Và tràn đầy nhiều hiểm nguy lớn.

Chúng con bị trói buộc luân hồi,

Mắc kẹt trong vòng tròn sinh tử, 

Mà không hay biết điểm cùng tận.


148. Chúng con không biết được con đường, 

Cũng chẳng thấy được đạo lộ đúng.

Chúng con như kẻ mù tối tăm, 

Xin đức Tự Tại hãy thương xót, 

Xin từ bi nhiếp thọ chúng con.


149. Chúng con khẩn thiết cầu xin Ngài, 

Bậc Đại Dũng Mãnh, bậc Đạo Sư, 

Xin hãy thuyết pháp cho chúng con.

Chúng con là những kẻ thiểu trí, 

Sinh ra không hiểu chơn an lạc.


150. Xin Ngài hãy thuyết pháp giải thoát, 

Chúng con khỏi khổ đau khốc liệt.

Bất cứ nơi nào con tái sinh, 

Nguyện nơi ấy luôn luôn thấy Phật.


Khi lời ấy được nói ra, đức Thế Tôn từ xa, bằng tâm của mình, biết được nguyện của các thiếu niên ấy, liền im lặng nhận lời. Khi ấy, đức Thế Tôn nói với Bồ Tát Dược Quân rằng:


Này Dược Quân, có 5.000 thiếu niên mồ côi trẻ tuổi hiện đang ở ngoài rìa pháp hội để nghe pháp, và đang từ xa hướng vọng về Ta. Từ sáng đến giờ, họ vẫn chưa được ăn uống. Ông hãy cùng các nam cư sĩ và nữ cư sĩ, chuẩn bị các món ăn và thức uống để cho các thiếu niên ấy. Sau khi ăn xong, hãy dẫn họ vào đây để gặp ta.


Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, đã cùng các nam cư sĩ và nữ cư sĩ chuẩn bị các món ăn và nước uống. Sau khi đã chuẩn bị xong, Bồ Tát Dược Quân đi đến chỗ những thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy hiện đang đứng ở phía ngoài rìa pháp hội, sau khi đến gần, liền nói với những thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy bằng bài kệ với giọng từ ái như sau:


151. Hãy ăn đi các món ăn ngon,

Hãy uống đi nước ngọt mỹ diệu,

Sau khi đã trở nên thông tuệ,

Các con sẽ nghe được giáo pháp, 

Không sợ hãi, một cách vô úy.


Các thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy hỏi:


152. Thưa bậc Tôn giả, bậc Trưởng lão, 

Chúng con xin hỏi ngài là ai?

Chúng con không biết gì về ngài,

Chúng con thấy hình tướng của ngài,

Rất trang nghiêm, dung mạo an tịnh, 

Chắc là vị danh uy rất lớn.


153. Ngài thoát khỏi cảnh khổ địa ngục, 

Cõi súc sinh và cõi ngạ quỷ,

Là những nơi đầy sợ hãi lớn,

Ngài đã tịnh hóa mọi tội lỗi,

Chính vì thế ở trên thế gian, 

Ngài toả rạng vẻ đẹp cao quý.


154. Chúng con thấy ở trong tay ngài, 

Có một bình báu nhìn rất đẹp,

Trang nghiêm bằng bảy loại trân bảo,

Một sợi chỉ báu quấn quanh thân,

Tỏa sáng rực như khối ánh sáng.


155. Chúng con không cưỡng lại lời nói,

Đầy tĩnh lặng thanh tịnh của ngài,

Và chúng con không còn tha thiết, 

Các món ăn mỹ diệu vị ngon,

Cũng không còn khát cầu nước ngọt.


156. Từ thức ăn mà phát sinh ra,

Phân dơ và các chất bài tiết,

Từ nước uống mà phát sinh ra, 

Mồ hôi, dịch, đàm và nước tiểu,

Từ dinh dưỡng mà sinh ra máu,

Và từ máu lại sinh ra thịt.


157. Chúng con không còn mong thức ăn,

Cũng không cần thức uống tinh tế,

Cũng chẳng mong mặc y phục mịn,

Dù tơ lụa, các loại vải quý.


158. Với những vòng đeo tay bằng vàng,

Chúng không còn là điều cần thiết,

Cũng không cần dây hoa khéo kết,

Nhẫn đeo tay cũng không cần dùng,

Vì tất cả những thứ như thế, 

Chúng thảy đều là pháp vô thường.


159. Chúng con không còn lấy sự sống,

Cho mạng sống là rất quý giá,

Chúng con không muốn vào đường dữ,

Chỉ tìm cầu chân nghĩa Như Lai, 

Nên thực hành các bố thí pháp,

Chứ không phải chạy theo lạc thú, 

Của chư thiên hay của thế gian.


160. Chúng con thực hành tình bạn lành,

Chứ không mong cầu các quyền lực, 

Của đế vương, chuyển luân thánh vương,

Vua Chuyển luân rồi cũng phải chết,

Bỏ sau lưng các lục địa đẹp.


161. Không có con trai nào theo sau,

Không vợ, không con gái theo sau,

Bảy báu vật rồi cũng lìa bỏ,

Chẳng gì theo được vua phía sau.


162. Dù từng quy tụ rất đông người,

Họ cũng không thể theo phía sau,

Cũng chẳng ai chạy đến phía trước,

Vua không còn làm chủ số phận,

Ngay giờ phút vua sắp phải chết.


163. Những vị vua chỉ có một đời,

Lạc lối trong vô số luân hồi,

Sau khi tạo nên những nghiệp ác,

Họ rơi vào địa ngục Não Nhiệt,

Rau-ra-va kinh hoàng đau khổ.


164. Dù họ đã chiếm lĩnh bốn phương,

Với bảy báu và tài sản lớn,

Khi rơi vào địa ngục Não Nhiệt,

Sự giàu có ấy sẽ còn đâu?


165. Người chết rồi chẳng giữ giàu sang,

Ở nơi ấy đất đai chẳng còn,

Thưa Trưởng lão, xin nghe chúng con,

Dẫn chúng con đến đức Như Lai.


166. Chúng con khát ngưỡng thấy Như Lai,

Như con thơ rất mong cha mẹ.

Vì chúng con, không cha, không mẹ,

Cũng không có anh em nào cả.


167. Chính Thế Tôn là mẹ, là cha, 

Là thầy Dẫn đường của thế gian,

Cũng chính Ngài mặt trăng, mặt trời,

Ngài soi sáng dẫn đường chúng con,

Chỉ con đường dẫn đến an lạc.


168. Ngài là Đấng giải thoát luân hồi,

Nhờ Ngài, không còn sinh trở lại.

Ngài là chiếc thuyền vượt dòng dữ,

Để thoát khỏi bão lũ phiền não,

Vớt chúng con thoát khỏi đại khổ.


169. Những chúng sinh được Ngài cứu độ,

Không còn quay lại vào luân hồi.

Bởi vì Ngài đã dạy chánh pháp,

Được dẫn đến Tỉnh thức Vô Thượng.


170. Chúng con không cần gì ăn uống,

Cũng chẳng cầu quả báu vương quyền.

Không còn việc phải đến cõi trời,

Vì chúng con những kẻ khiếp sợ,

Các đau khổ ở trong địa ngục.


171. Thân người là điều vui hy hữu,

Là nơi có thể thấy Toàn Giác.

Thế nhưng kẻ bạc phước vẫn hiện,

Do nghiệp xấu ác của chính họ.


172. Chìm đắm trong dục lạc thế gian,

Không hề biết chết đang đến gần.

Không hiểu biết, không hề sợ hãi,

Bị lừa dối bởi diệt và sinh.


173. Họ không hiểu các pháp vi tế,

Không thực hành việc thiện vi tế.

Không biết đến cảnh giới tịch tĩnh,

Bởi tâm họ vô minh chi phối.


174. Họ thường xuyên rơi vào đọa lạc,

Không mỏi mệt cũng chẳng buồn thương,

Họ liên tục tái sinh không dứt, 

Nó lặp đi lặp lại không ngừng,

Trải đêm dài luân hồi sinh tử,

Họ luôn bị khổ đau hành hạ,

Các đau đớn thường xuyên không dứt,

Như hình phạt bị đánh bằng gậy.


175. Họ trộm đoạt của cải người khác,

Rồi bị giết hại, hoặc giam cầm.

Bị trói buộc bởi năm xiềng xích,

Chính là do họ bị dẫn dắt, 

Bởi nghiệp ác quá khứ họ tạo.


176. Họ chết đi ở trong tuyệt vọng,

Tâm can đầy thương đau sầu khổ.

Khi thức họ dần bị ngưng diệt,

Họ bi thương than khóc chẳng nguôi.


177. Ai là người cứu được ta đây?

Khi ta lâm cảnh sắp chết này,

Tất cả lạc thú ta xin tặng.

Vàng, bạc, pha lê, ta đều cúng,

Chính thân ta sẽ làm nô lệ,

Chỉ cần ai cứu ta khỏi chết.


178. Mọi việc nặng nhọc ta sẽ làm,

Việc thích hợp thân phận kẻ hầu, 

Ta cũng sẽ chẳng hề chê trách.

Ta không còn mong cầu vương quyền,

Cũng không mong lạc thú thế gian,

Cũng chẳng màng thóc lúa của cải.


179. Chính thân này cần làm việc thiện,

Tạo ác nghiệp chẳng thể nào được,

Tự giải thoát mình khỏi khổ đau.

Vì thế, kính thưa bậc Trưởng lão,

Thật lòng với chúng con mà nói,

Không còn vướng bận vào ăn uống.


180. Ngay cả vua chúa cũng sẽ chết,

Dù họ từng ăn món mỹ vị.

Chư Thiên dù uống rượu tối thượng,

Rồi chư thiên cũng sẽ phải chết,

Họ không thể thoát luật vô thường.


181. Các món ăn và các thức uống, 

Được chế biến khéo léo cầu kỳ,

Hội đủ các vị ngon khác nhau.

Được dâng đến trước mặt đức vua, 

Chỉ chạm lưỡi nếm thử món ăn.


182. Vì tham đắm vị ngon vừa miệng, 

Các vị vua tạo vô số ác, 

Họ tạo nên vô số nghiệp ác.

Họ say mê những vị vị ngắn ngủi, 

Nó không bền chỉ chợt thoáng qua,

Không có chút cốt lõi, chân thật.


183. Và sự thật đối với chúng con, 

Không còn nên vướng vào thức uống, 

Cũng chẳng nên màng đến thức ăn.

Tất cả chúng con cần thực hành, 

Là đi đúng theo bản tánh Pháp,

Được thoát ly khỏi mọi khổ đau.


184. Chúng con quy y nơi đức Phật,

Là quy y tự tánh Toàn Giác,

Đấng đã cởi mọi dây khát ái,

Đã thoát khỏi tất cả phiền não,

Bởi do các khát ái gây nên,

Đã giải thoát hoàn toàn trọn vẹn, 

Khỏi mọi trói buộc trong sinh tử.


185. Thật vậy, chúng con đến nương tựa,

Nơi Thế Tôn, Lãnh Đạo Thế Gian, 

Bậc Đại Tiên, Thánh ma-har-ṣi.

Chúng con đi đến để lễ bái,

Bậc được các hữu tình yêu kính.


Và chúng con không biết tên Ngài,

Xin Ngài hãy nói danh hiệu đẹp.


Bồ Tát Dược Quân liền nói rằng:


186. Các vị thật sự mong được nghe,

Danh hiệu mọi người đều nên biết.

Đức Như Lai hiện được vây quanh,

Bởi hàng trăm triệu tỷ chúng sinh,

Là những người trẻ tuổi non trẻ.


Các thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy đều nói rằng:


187. Chúng con thật sự mong được nghe,

Danh hiệu Ngài sinh mọi công đức.

Nghe rằng danh hiệu Ngài rất sâu,

Ngài là bậc đệ tử chư Phật.


Khi ấy, Bồ Tát Dược Quân nói rằng: 


188. Danh hiệu của ta là Dược Quân,

Là thuốc thang tất cả chúng sinh.


189. Ta sẽ vì các con giảng nói,

Một loại thuốc vô cùng tối thắng,

Trị được cho tất cả mọi người.

Thuốc ấy có khả năng lắng dịu,

Làm tiêu trừ tất cả bệnh tật,

Cho những ai đang bị khổ não, 

Do bệnh tật trói buộc hành hạ.


190. Tham dục chính là một chứng bệnh, 

Là một loại đại bệnh rất nặng,

Nó huỷ hoại, tổn hại đời này,

Là tai hoạ lớn trong thế gian. 

Si mê là một loại bệnh lớn,

Nó rất độc và rất ghê gớm,

Khiến cho những người thiếu trí tuệ, 

Bị xoay vần ở trong điên đảo.


191. Chúng sinh bị giận dữ thiêu đốt,

Mà phải đọa vào đường địa ngục, 

Cả súc sinh, và đường ngạ quỷ.

Kẻ si mê lòng sân chi phối,

Sao an ổn thật sự chính mình?


Các thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy nói rằng:


192. Nguyện chúng con thoát mọi khổ đau, 

Nhờ lắng nghe giáo pháp tốt lành.

Được giải thoát khỏi mọi khổ đau, 

Tất cả chúng con tuệ yếu kém,

Có tâm trí non nớt ngu si, 

Chưa từng biết con đường chánh pháp.


193. Chúng con nguyện chăm chú lắng nghe, 

Sự ban bố Chánh Pháp Toàn Giác, 

Để lìa xa hoàn toàn nghiệp ác,

Để đoạn trừ tất cả tội lỗi, 

Và vượt thoát mọi nỗi sợ hãi.


Khi ấy, Bồ Tát Dược Quân nói rằng:


194. Chúng con sẽ sớm thấy đức Phật, 

Đấng giải thoát khỏi mọi khổ bệnh.

Ngài là Vua của các y sư, 

Bậc Lương Y, Bậc Thầy Thuốc Lớn, 

Là vị lương y của những người, 

Đang chìm đắm trong các bệnh khổ.


Các thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy nói rằng:


195. Thưa bậc Trưởng lão, mau đi đến, 

Đảnh lễ đức Như Lai Thiện Thệ.

Hãy thay mặt tất cả chúng con, 

Đảnh lễ và thưa đức Toàn Giác, 

Bậc Dẫn Đường toàn thể thế gian.


196. Xin Ngài hãy dập tắt bệnh này, 

Dập tắt ngọn lửa cháy dữ dội.

Thân thể này, vốn đang cháy rực, 

Bị thiêu đốt, không dập tắt được.


197. Với chúng con, những người đang bị, 

Dày vò bởi nhiều loại khổ đau, 

Xin Ngài, bậc Hạnh Giới thanh tịnh, 

Xin hãy làm điều đáng nên làm.

Thân thể này là gánh nặng lớn, 

Một gánh nặng sắc bén khốc liệt.


198. Con người luôn luôn phải mang vác,

Các gánh nặng đều bị chi phối, 

Bởi sân hận và lòng si mê.

Lặp đi lặp lại trong vòng tròn, 

Con vẫn cứ mang vác gánh nặng,

Nó chướng ngại con đường giải thoát, 

Trong khi là những kẻ vô minh,

Con không biết, không thấy gánh nặng.


199. Tất cả những người như chúng con,

Đều không biết chết là tất yếu,

Và tất cả đều cần phải chết, 

Và cũng không sinh tâm kinh hãi.

Chúng con không biết, cũng không thấy, 

Con đường đưa đến chơn giải thoát.


200. Chúng con sống ổn định, tin rằng, 

Chết không bao giờ đến với mình.

Con hoang mang, và không hiểu biết, 

Dù chứng kiến mẹ mình đã chết,

Hoặc chứng kiến người thân mình chết.


201. Những người khác trong chúng con đây,

Phải chịu cảnh đau đớn thường xuyên, 

Bị bệnh tật thống khổ hành hạ, 

Họ không còn nhớ đến cha mình.

Những kẻ bị phiền não lôi cuốn, 

Bởi phiền não và nhiều nghiệp ác, 

Thì làm sao vui vẻ ăn uống?


202. Chúng con không biết sự kết thúc,

Sự chấm dứt hoàn toàn khổ đau, 

Chỉ mệt mỏi trong sự vô nghĩa.


Bồ Tát Dược Quân nói rằng:


Khổ đau như vậy của các con, 

Có nguyên nhân từ sự sinh ra, 

Và kết hợp với sự vô minh,

Tạo nên khối màn đêm u ám.


203. Những tưởng, hành, và các cảm thọ,

Chúng là một gánh nặng rất lớn,

Ở trong đó đầy các hiểm họa.

Trẻ vô minh đang bị cuốn xoáy,

Bởi khát ái, tìm cầu khoái lạc,

Là người không hiểu biết chánh Chánh Pháp.


204. Sinh trong thế gian thật vô ích, 

Kẻ ấy bị bao phủ hoàn toàn, 

Bởi gánh nặng của thân thể mình.

Họ bận tâm đến việc tắm rửa, 

Xức hương, dầu thơm, và áo sạch, 

Và trang hoàng đẹp đẽ thân mình.


205. Siêng chăm lo các món ăn ngon,

Chỉ để làm đẹp lòng thân thể.

Và đôi tai này cũng đòi hỏi, 

Năm âm thanh giai điệu ngọt ngào.


206. Đôi mắt bị mê đắm sắc tướng, 

Được tạo tác bởi bảy báu vật.

Lưỡi cũng đòi hỏi tất cả vị, 

Những vị ngon, vừa miệng, thích ý.


207. Thân thể luôn khao khát tiếp xúc, 

Sự xúc chạm êm ái, tinh tế.

Sự dục lạc khoái cảm phát sinh, 

Khi hai thân thể ép sát nhau.


208. Thân thể này vốn không tri giác, 

Ai có thể thực sự cảm nhận,

Các dục lạc khoái cảm trong đó?

Hai cơ thể vui thích đó chăng, 

Khi chỉ là lớp da phủ ngoài, 

Dù đẹp đẽ, mềm, hay săn chắc?


209. Các y phục, nhiều loại mỹ phẩm,

Những dầu thơm để xức trên thân, 

Thì làm sao có thể trở thành,

Nơi nương tựa khi chết sắp đến,

Trong khi cả chính thân thể này, 

Cũng không thể là nơi nương tựa, 

Thì hà tất y phục, mỹ phẩm,

Chúng có thể là nơi nương tựa,

Khi thân này phải bỏ khi chết?


210. Người được gọi là có thân thể, 

Có hơi thở sức lực mạnh mẽ, 

Sức mạnh bén là sự quán sát, 

Đó chính công đức lớn trong thân,

Là sự thánh thiện và tốt lành,

Vốn trong sạch và rất dễ chịu,

Hiện diện ngay trong thân thể này.


Các thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy nói rằng:


211. Thuở xưa, chúng con bị cuốn vào, 

Bởi sự vui chơi, được vây quanh, 

Bởi ngựa voi, và trò vui thú.

Không hề biết đến Pháp Giải Thoát, 

Con đắm mình trong các nghiệp ác.


212. Bởi các trò vui chơi, lạc thú,

Con đã tạo ra nhiều điều ác, 

Do không biết về cõi đời sau.

Con đã sinh lặp đi lặp lại, 

Với chu kỳ giống như vòng tròn,

Rồi lại đến cái chết lần nữa.


213. Con chứng kiến rất nhiều nỗi khổ,

Chúng diễn ra lặp đi lặp lại, 

Cứ liên tục ở trong thân này,

Và ảnh hưởng sâu cả tâm thức,

Cùng với sự ràng buộc than khóc.

Con đã thấy rất nhiều cái chết, 

Của những người đã từng là mẹ, 

Và đã thấy cái chết của cha.


214. Thân quyến, bà con, và chị em,

Con gái, con trai, và cả vợ,

Những người ấy đều cũng đã chết.

Tất cả hành quả thật rỗng không. 

Ai hiện hữu vẫn còn tri giác, 

Lại có thể đắm say trong đó?


215. Con đã biết mình có tri giác, 

Có lòng tin vào tri giác này, 

Nhưng với tâm còn bị chiếm giữ, 

Bởi tham ái, ham thích khoái lạc.

Con đã không đạt được Chánh Pháp,

Không đạt được tịch tĩnh nội tâm, 

Không có lòng bình thản, hoan hỷ,

Khi đối diện cái chết đến gần.


216. Và chính bởi vì lý do ấy, 

Con đã không thực hành bố thí, 

Bởi tâm ý con bị che phủ, 

Bởi tham dục, ham muốn, tham lam.

Có ác nào sánh bằng tham dục, 

Kẻ đến nay vẫn chưa dừng lại?


217. Quả thật, chúng con được sinh ra, 

Trong sự rối loạn và lầm lạc, 

Và toàn thể thế gian cũng vậy,

Đều trong sự rối loạn lầm lạc.

Chúng con ở trong sự rối loạn,

Đã lắng nghe lời nói âm thanh,

Tiếp nhận lời thuyết giảng tà pháp.


218. Chúng con mong tìm đến giải thoát,

Và thiền định duy thức tịch tĩnh, 

Chứ không muốn vác thân này nữa.

Chúng con nguyện thành tựu Toàn Giác,

Trong tương lai trở thành chư Phật, 

Vì lợi ích hạnh phúc thế gian, 

Bậc Đạo Sư, Bậc Thầy ở đời.


219. Đức Phật chính là mẹ, là cha, 

Bậc Chỉ Đạo, Con Đường thế gian,

Ngài làm mưa xuống trận mưa pháp, 

Tưới khắp nơi trong Diêm-phù-đề.


220. Chúng con mê muội lại không biết,

Cách làm sao để giữ chánh pháp.


Khi ấy, Bồ Tát Dược Quân nói rằng:


Chỉ khi hướng tâm đến Tỉnh Thức, 

Thì mới đạt giữ gìn chánh pháp.


Và khi các thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy, làm theo lời dạy của Bồ Tát Dược Quân hướng dẫn cách giữ gìn chánh pháp trong tâm mình, tất cả họ đều hướng tâm đến Tỉnh Thức. Sau khi hướng tâm đến Tỉnh Thức, các thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy nói với Bồ Tát Dược Quân như sau:


221. Tất cả các hành đều rỗng không, 

Các thú vui cũng là rỗng không, 

Của cải tài sản cũng rỗng không.

Chúng con thấy chính bản thân mình, 

Bản thân này cũng là rỗng không, 

Do thấy vậy sinh ra tuyệt vọng.


222. Kính thưa Ngài, Trưởng lão tôn kính,

Kính thưa Ngài Hoà Thượng Dược Quân, 

Xin Ngài hãy lắng nghe lời con,

Lời thỉnh cầu hoàn toàn chân thật.

Chúng con không muốn rời xa Ngài, 

Bởi vì Ngài là vị Bồ Tát.


223. Các vị Bồ Tát không bao giờ,

Có nản lòng hay là mệt mỏi, 

Là những người đầy sức tinh tấn, 

Và công hạnh các Ngài rất lớn.

Họ ghi nhớ rõ các lỗi lầm, 

Các khổ nạn luân hồi sinh tử, 

Và họ hiểu được cách tích luỹ, 

Các công đức thánh thiện trong sạch.


224. Kính thưa Ngài hãy mau đi đến, 

Đến chỗ của đức Phật Đạo Sư, 

Hãy thưa hỏi thay cho chúng con,

Về lý do, cách thức giải thoát,

Để chúng con hoàn toàn sống được,

Bằng tự tánh Tỉnh Thức Toàn Giác. 

Bậc Đạo Sư đã chứng hạnh phúc, 

Thân tâm Ngài hoàn toàn an lạc, 

Xin đừng để cho Bậc Chiến Thắng,

Có một chút phiền lòng điều gì.


225. Ma vương, cùng các đoàn ma binh, 

Cỗ xe ma, bị Phật đánh bại.

Pháp đã được thắp sáng rực rỡ, 

Mang lợi lạc tất cả chúng sinh.


226. Chúng con chưa từng nghe Chánh Pháp, 

Để thành tựu được Trí Toàn Giác,

Nhờ đó mà có thể thành Phật.

Xin Trưởng lão hãy mau chóng đi, 

Vì lợi ích cho các chúng con.


227. Lòng chúng con sẽ không an vui, 

Cho đến khi được thấy Như Lai.

Tất cả chúng con đều đứng đây, 

Với lòng cung kính để chiêm ngưỡng, 

Vị mang đủ ba hai tướng tốt.


Bồ Tát Dược Quân nói rằng:


228. Vậy thì các con hãy nhìn lên, 

Các con hiện đang thấy những gì?


229. Khi ấy họ đều ngước nhìn lên, 

Toàn thành phố năm trăm toà lầu,

Ba trăm ngàn nhà cửa cung điện,

Đều hiện diện khắp nơi trong thành.


230. Chúng được dựng bằng bảy loại báu, 

Được trang hoàng bằng các lưới báu.

Giữa mỗi nhà có một đóa sen,

Đoá hoa ấy nở rộ rực rỡ, 

Tỏa hương thơm thần thánh vi diệu.


231. Lúc bấy giờ, các thiếu niên ấy,

Đã hỏi vị Hoà Thượng Dược Quân: 

Kính thưa Ngài, đây là điều gì,

Chúng con đang được thấy ở đây?

Những lầu các che phủ lưới báu, 

Cách sắp xếp như trên nhụy sen.


Bồ Tát Dược Quân nói rằng:


232. Pháp hội bây giờ rất là đông,

Những chỗ ấy dành cho các con; 

Đứng trên đó sẽ thấy đức Phật,

Hãy đi đến để gặp đức Phật.

Hãy đảnh lễ vị Đèn Thế Gian, 

Bậc đạo sư siêu việt thế gian.


Các thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy thưa rằng:


233. Chúng con không biết đường đến đó, 

Vì pháp hội hiện nay rất đông,

Cũng không thấy được đức Như Lai.

Và khi không biết được lối đi, 

Chúng con sẽ đi đâu đảnh lễ?


Khi ấy, Bồ Tát Dược Quân, với sự hộ tống và dọn đường của các cư sĩ nam và cư sĩ nữ, đã dẫn 5000 thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy vào để đảnh lễ đức Thế Tôn. Khi gần đến trung tâm của pháp hội, Bồ Tát Dược Quân dặn dò các thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy như sau:


234. Các con phải đi đến đảnh lễ, 

Bậc Đạo Sư ánh sáng bất diệt.

Bậc Thầy như hư không vô biên, 

Bậc Thầy không thể nắm bắt được.


235. Bậc Đạo Sư đang ngồi ở giữa, 

Như đỉnh núi mê-ru sừng sững,

Bậc Trí Tuệ sâu thẳm đại dương.


236. Bậc vượt hơn ba ngàn đại thiên, 

Không phải do bụi trần có được, 

Mà chính do trí tuệ Toàn Giác, 

Mới sinh ra đức Phật Đạo Sư.


Đức Phật, đấng soi sáng thế gian, 

Được chư Bồ Tát trong mười phương,

Vân tập đến xếp hàng đảnh lễ.

Các con hãy đi theo hàng lối,

Theo thứ tự để đảnh lễ Phật. 


Các thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy thưa rằng:


237. Xin Ngài hãy đi chung chúng con, 

Để đến gặp lễ đức Thế Tôn, 

Và làm tròn mong cầu chúng con.

Tâm thanh tịnh, chúng con hoàn toàn, 

Đảnh lễ bậc Đạo Sư thành kính, 

Và từ đó, quả lành thành tựu.


Khi ấy các thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy, trước khi được vào đảnh lễ đức Thế Tôn, đã hỏi Bồ Tát Dược Quân rằng:


Thưa Trưởng lão, chúng con có cần phải chuẩn bị các loại hoa, hương, tràng hoa, hay đồ vật để cúng dường đức Thế Tôn chăng?


Bồ Tát Dược Quân nói rằng:


238. Đức Đạo Sư không bị quyến rũ, 

Bởi hương thơm, không bởi tràng hoa, 

Hay các loại thoa ướp thân thể.

Ngài chỉ tiếp nhận các nhân duyên,

Của chúng sinh khi đến đức Phật, 

Và nhờ đó họ được thoát khỏi,

Dứt tập hành sinh diệt trong tâm.


239. Ma vương hết sức dữ dội ấy,

Nơi người ấy không còn khởi chiến,

Bởi tâm thức đã được điều phục, 

Và người ấy hoàn toàn nương tựa,

Nơi Trí Tuệ Toàn Giác của Phật.


240. Người ấy sẽ không còn rơi vào,

Trong lãnh địa chi phối Tử thần, 

Người ấy sẽ nhanh chóng đạt được, 

Các năng lực trì giữ chơn lý.

Sau khi làm cho tâm thanh tịnh, 

Người ấy liền thấy Bậc Đạo Sư.


254. Khi ấy, các thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy đi theo Bồ Tát Dược Quân vào giữa hội chúng để đảnh lễ đức Thế Tôn. Sau khi đảnh lễ, và ngồi xuống một bên, lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Như Lai, cất tiếng nói êm dịu như tiếng chim ka-la-viṅ-ka hót, thật là khả ái và dễ nghe, đã thuyết pháp cho các thiếu niên ấy. Sau khi lời thuyết pháp của đức Thế Tôn vừa dứt, tất cả các thiếu niên mồ côi trẻ tuổi ấy, tâm thức đứng lặng, yên tĩnh, hoàn toàn quay lưng lại với luân hồi, dập tắt tất cả ngọn lửa sinh diệt đang cháy trong tâm thức, và an trụ trong tầng địa thứ mười của Bồ Tát. Ngay khi ấy, đức Thế Tôn liền nở nụ cười.


Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và thưa rằng:


Thưa đức Thế Tôn, nhân là gì? Và duyên là gì khiến đức Như Lai nở nụ cười? 


Từ nơi cửa miệng của đức Thế Tôn phát ra 84.000 tia sáng. Và chính bởi những tia sáng ấy, toàn thể 3000 đại thiên thế giới đều được soi chiếu rực rỡ. 32 đại địa ngục đều trở nên hiển lộ rõ ràng, và 32 cõi trời cũng được ánh sáng ấy chiếu rọi.


Các tia sáng ấy mang nhiều màu sắc khác nhau, như là: xanh biếc, vàng tươi, đỏ rực, trắng tinh, hồng yên chi, trong suốt như pha lê, và ánh bạc. Các tia sáng ấy, từ cửa miệng của đức Thế Tôn phát ra, chiếu khắp 3000 đại thiên thế giới, phủ lên tất cả chúng sinh trong toàn cõi đó.


Rồi các tia sáng ấy lại quay trở về, nhiễu quanh đức Thế Tôn bảy vòng, và biến mất trên đảnh đầu của đức Thế Tôn.


255. Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát thưa với đức Thế Tôn rằng:


Nguyện con được thưa hỏi đức Thế Tôn Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, một điều nhỏ; nếu đức Thế Tôn cho phép, con xin được nêu câu hỏi để Ngài thuyết giải.


Khi lời ấy được nói ra, đức Thế Tôn liền bảo Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát rằng:


Này Dược Quân, nếu ông mong cầu điều gì, thì cứ hỏi đi; ta sẽ dùng sự giải đáp từng câu hỏi ấy để làm hoan hỷ tâm ông.


256. Khi ấy, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, 300 tỷ chúng sinh trẻ tuổi còn non trẻ nhỏ bé trí tuệ non nớt vừa mới phát tâm đã xuất hiện. Họ lắng nghe những lời thuyết pháp vi tế của Như Lai. Nhưng, thưa đức Thế Tôn, họ lại hủy báng, phỉ báng, chê bai và áp bức những chúng sinh lớn tuổi, và bảo rằng:


‘Các ông là bậc già lão, cao niên, lớn tuổi rồi mà không hiểu đạo lý chánh pháp, thường bị đắm chìm, tâm bị lôi cuốn trong phi pháp và điều bất thiện.’


Tuy vậy, họ lại phát ra lời nói êm dịu và dễ nghe. Vì sao họ lại nói những lời như vậy, thưa đức Thế Tôn?


Đức Thế Tôn nói rằng:


Này Dược Quân, ông chưa hiểu vì lý do nào mà những chúng sinh này lại nói ra những lời như thế. Bởi vì khi họ nghe Chánh pháp được thuyết giảng một cách dịu dàng, thiện xảo, và khéo léo từ Như Lai, những người này, vì vậy, này Dược Quân, những chúng sinh ấy sẽ thấu hiểu nghĩa lý của tất cả các pháp. Và họ sẽ trở nên đầy đủ tất cả công đức, sự thánh thiện tốt lành trong sạch dễ chịu. Tất cả sẽ đạt đến sự thâm nhập vào năng lực trì giữ chân lý, các pháp Trì dhā-ra-ṇi. Từ hôm nay trở đi, họ sẽ an trụ trong tầng địa thứ mười. Hôm nay, họ sẽ vang lên tiếng trống pháp lớn. Hôm nay, họ sẽ đạt được sự đầy đủ các yếu tố của Pháp lớn.


Này Dược Quân, ông có thấy những tòa lầu báu này chăng?


Dược Quân thưa:


Con thấy, thưa đức Thế Tôn, con thấy, thưa đức Thiện Thệ.


Đức Thế Tôn dạy rằng:


Hôm nay, này Dược Quân, những chúng sinh trẻ tuổi này sẽ bước lên các tòa lầu báu ấy và chứng đắc sự hiểu rõ về chân lý của chánh pháp. Hôm nay, họ sẽ thành tựu sự hoàn toàn viên mãn của tất cả các thiện pháp. Hôm nay, họ sẽ vang lên trống pháp lớn.


Hôm nay, nhiều hội chúng chư thiên sẽ chứng nhập chánh pháp.


Và đối với nhiều chúng sinh nơi địa ngục, những người đang rơi vào đọa xứ, khi nghe được lời chỉ dạy về Trí Toàn Giác của Như Lai, họ sẽ hoàn toàn quay lưng lại với tất cả luân hồi và chiến thắng nó.


257. Vào lúc ấy, có 990 tỷ các chúng sinh lớn tuổi, tất cả đã chứng đắc quả vị Nhập Lưu - Tu Đà Hoàn. Và họ sẽ thành tựu đầy đủ tất cả các pháp. Tất cả những vị ấy, này Dược Quân, sẽ hoàn toàn thoát khỏi tất cả khổ đau. Tất cả họ, này Dược Quân, sẽ thành tựu sự thấy biết tất cả các đức Như Lai. Tất cả họ, này Dược Quân, sẽ được đầy đủ pháp lớn.


Này Dược Quân, hãy quán sát bốn phương.


258. Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát liền quán sát khắp cả bốn phương.


Ngài thấy ở phương Đông, có 500 triệu Hằng Hà Sa các vị Bồ Tát đang đến. Ở phương Nam, có 600 triệu Hằng Hà Sa các vị Bồ Tát đang đến. Ở phương Tây, có 700 triệu Hằng Hà Sa các vị Bồ Tát đang đến. Ở phương Bắc, có 800 triệu Hằng Hà Sa các vị Bồ Tát đang đến. Từ phương dưới, có 900 triệu Hằng Hà Sa các vị Bồ Tát đang đến. Từ phương trên, có 1 tỷ Hằng Hà Sa các vị Bồ Tát đang đến. Và các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát ấy, khi đến, liền cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, rồi đứng sang một bên.


259. Khi các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát, từ mười phương đã đứng sang một bên, lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát thưa với đức Thế Tôn rằng:


Thưa đức Thế Tôn, đó là gì mà con thấy trên không trung, có những luồng khí như những con chim có hình sắc đen và hình sắc đỏ?


Đức Thế Tôn nói rằng: 


Này Dược Quân, ông không nhận ra điều này là gì – những luồng khí có hình sắc đen và đỏ mà ông đang thấy giữa không trung ư?


Bồ Tát Dược Quân đáp: 


Con không biết, thưa đức Thế Tôn, con không biết, thưa đức Thiện Thệ.


Đức Thế Tôn nói: 


Chỉ có Như Lai mới biết được điều ấy.


Luồng khí có hình sắc đen ấy, này Dược Quân, đó chính là Ác Ma và các chúng binh ma đã đến đây, và đang dò tìm thức của tất cả chúng sinh trong hội chúng này, để khiến chúng sinh mê mờ, làm cho mắt tuệ bị lầm lạc. Tuy nhiên, trong pháp hội này, những chúng sinh trẻ tuổi đã hoàn toàn quay lưng lại với tất cả luân hồi, đã dập tắt hoàn toàn ngọn lửa sinh diệt đang cháy trong tâm thức, an trụ trong tầng địa thứ mười của Bồ Tát; còn những chúng sinh lớn tuổi đã chứng đắc quả vị Nhập Lưu Tu Đà Hoàn. Tất cả họ đều hoàn toàn thoát khỏi lãnh địa của Ác Ma. Vì thế, Ác Ma và các chúng binh ma không dò được thức của bất kỳ một ai, cũng không thấy bất kỳ ai trong hội chúng này, nên lượn lờ như vậy rồi rút lui.


Này Dược Quân, còn luồng khí có hình sắc đỏ ấy, đó chính là các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát từ mười phương đã đến đây, và hiện đang trú giữa không trung. Ông có muốn thấy các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát ấy – những vị đang trú giữa không trung chăng?


Bồ Tát Dược Quân đáp: 


Con mong muốn thấy, thưa đức Thế Tôn, con mong muốn thấy, thưa đức Thiện Thệ.


Khi ấy đức Thế Tôn liền bảo các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát từ mười phương đến, và hiện đang trú giữa không trung rằng:


Này các thiện nam tử, các ông hãy thị hiện thân mình để cho Dược Quân và tất cả hội chúng ở đây được thấy. 


Khi lời đức Thế Tôn vừa nói ra, tất cả các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát ấy đều hiện thân giữa không trung. Bấy giờ, trên bầu trời của pháp hội, các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát ấy đứng chật kín không còn chỗ trống. Tất cả đều chắp tay hướng về đức Thế Tôn để kính lễ và lắng nghe pháp. 


260. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, sau khi đã thị hiện các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát ấy, liền gọi Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát rằng:


Này Dược Quân, đã có những vị Bồ Tát như thế này, số lượng bằng 1 tỷ Hằng Hà Sa đã đến.


Bồ Tát Dược Quân thưa rằng: 


Thưa đức Thế Tôn, nhân là gì? Và duyên là gì khiến các vị Bồ Tát với số lượng đông như vậy đã đến đây?


Đức Thế Tôn nói: 


Này Dược Quân, do nhân duyên của các chúng sinh trẻ tuổi, những người còn non trẻ và trí tuệ non nớt, đã tạo điều kiện để thuyết giảng Kinh về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp, nên các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát trong mười phương đều vân tập đến đây để nghe pháp. Sau khi nghe được bài giảng pháp này, tất cả chúng sinh sẽ được thấm nhuần và hoà nhập vào thiền định trên Pháp. 


Các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát ấy, sau khi nghe được bài giảng pháp này, đều biết được cách để cứu vớt và giúp đỡ tất cả chúng sinh đang trôi lăn trong sáu đường luân hồi, chìm sâu trong ba đường ác địa ngục, quỷ đói, và súc sinh, giúp họ thoát khỏi khổ đau và sự sinh tử, chứng ngộ Trí Toàn Giác của Như Lai, trong tương lai sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, bằng cách chỉ cho họ Cách Tích Luỹ Chánh Pháp. 


Này Dược Quân, bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp này rất hiếm khi được các đức Phật thuyết giảng trong mười phương, kể cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Đức Phật thuyết giảng Kinh này liền trước ta là đức Phật vi-paś-sin - Bậc Thấy Phân Biệt Chơn Chánh Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác, và cách hôm nay đã 3 a-sam-khê kiếp. Rất hiếm khi Kinh này mới xuất hiện một lần trên thế gian, chính vì thế, các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát đông nhiều như vậy từ mười phương đến, chỉ để nghe được bài giảng pháp này.


Này Dược Quân, ông có thấy các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát này, có hình dạng khác nhau, đã đến bằng lực thần thông chăng?


Bồ Tát Dược Quân thưa rằng: 


Con đã quan sát 1 tỷ Hằng Hà Sa thế giới, tại đó, con đã thấy các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát, với số lượng bằng 100 triệu tỷ tỷ Hằng Hà Sa, họ an trú bằng chính thần lực của riêng mình, với những hình dạng khác nhau, sắc thái khác nhau, và oai lực khác nhau.


Các vị Bồ Tát ấy an trú trong sự an trú của Thánh Pháp. Các quyến thuộc Bồ Tát ấy an trú trong sự an trú của chánh pháp.


Đức Thế Tôn nói rằng:


Lành thay, này Dược Quân. Đúng như vậy, đúng như những gì ông đã thấy. Các vị Bồ Tát và Đại Bồ Tát ấy, thuở xưa cũng đều là các chúng sinh nhỏ bé, trẻ tuổi, tuổi thọ ngắn, non trẻ, trí tuệ non nớt, ngu si, mờ tối, thiếu trí tuệ, trôi lăn trong sáu đường luân hồi, và đã từng chìm sâu trong ba đường ác địa ngục, quỷ đói và súc sinh, phải trải qua các cảm thọ khổ đau khốc liệt, và có người là chúng sinh lớn tuổi với tâm thường bị lôi cuốn trong phi pháp và điều bất thiện. Do họ đã hiểu cách Tích Luỹ Chánh Pháp, và nỗ lực thành tựu Chánh Pháp, chứng đạt trí Toàn Giác, nên hôm nay, họ an trú trong sự an trú của Thánh Pháp, và có được năng lực thần thông của riêng mình lớn như vậy.


Vì vậy, này Dược Quân, ông và tất cả chúng sinh nên nỗ lực tinh tấn Tích Luỹ Chánh Pháp và thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong tương lai, ông và tất cả chúng sinh đều sẽ có năng lực thần thông lớn như vậy, và đều sẽ trở thành các đức Như Lai, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác.


Đức Thế Tôn đã nói như vậy với tâm hoan hỷ. Bồ Tát Nhất Thiết Dũng Đại Bồ Tát, Bồ Tát Dược Quân Đại Bồ Tát, và tất cả các vị Bồ Tát, và Đại Bồ Tát vừa mới thành và đã thành từ lâu, và khắp toàn thể hội chúng, và tất cả thế giới gồm chư Thiên, loài Người, A-tu-la và Càn-thát-bà cũng đều hoan hỷ tán thán lời giảng của đức Thế Tôn.


Bài giảng pháp về Cách Tích Luỹ Chánh Pháp đến đây là hoàn tất.


Comments

Popular posts from this blog

KINH A DI ĐÀ TIẾNG PHẠN (SANSKRIT)

KARUṆĀPUṆḌARĪKA-SŪTRAM - KINH HOA SEN TRẮNG PUṆḌARĪKA ĐẠI BI THANH TỊNH